Bất cập trong quy định hộ gia đình sử dụng đất của Luật Đất đai năm 2013
Tại Khoản 29 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình sử dụng đất là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, đang sống chung và có quyền sử dụng đất chung tại thời điểm được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất; nhận chuyển quyền sử dụng đất”. Với quy định này chưa thật sự rõ ràng, đầy đủ. Thực tiễn áp dụng đã phát sinh một số bất cập như sau:
Thứ nhất, xác định tư cách thành viên đối với nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Thực tế có những hộ gia đình mà vợ chồng là quan hệ hôn nhân thực tế, xác lập sau ngày 03/01/1987 đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn theo quy định. Về mặt quản lý nhân khẩu thì vẫn ghi nhận quan hệ sống chung vợ chồng này thông qua sổ hộ khẩu. Nhưng quan hệ hôn nhân này không được pháp luật thừa nhận là vợ chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Vấn đề đặt ra là, nếu họ cùng tạo lập được tài sản là quyền sử dụng đất và được Nhà nước cấp chung cho hộ gia đình thì nam nữ sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn này có phải là thành viên hộ gia đình sử dụng đất để được xác định là những người cùng sử dụng hay không?
Thứ hai, thời điểm xác định thành viên hộ gia đình. Theo Luật Đất đai năm 2013, vào ngày, tháng năm mà Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì những ai có quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng mà đang sống chung sẽ là thành viên hộ gia đình sử dụng đất. Và vì thế, họ là những người sử dụng đối với quyền sử dụng đất này. Giả định trong trường hợp có sự biến động về đất (tách, nhập thửa, chuyển mục đích sử dụng đất,..) dẫn đến việc cấp mới, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thời điểm này có sự thay đổi về thành viên trong hộ gia đình thì thành viên hộ gia đình được xác định như thế nào (không quan tâm đến thành viên được cấp lần đầu và số lần được cấp lại hay chỉ căn cứ vào thành viên tương ứng với thời điểm giấy chứng nhận được cấp?)
Thứ ba, xác định thành viên hộ gia đình theo hàng huyết thống. Luật Đất đai chỉ quy định chung là những người có quan hệ huyết thống đang sống chung tại thời điểm được cấp đất là thành viên hộ gia đình. Vậy, quan hệ huyết thống được xác định đến hàng thứ mấy, theo quy định của pháp luật thì Luật Đất đai không quy định cụ thể. Trên thực tế, trong những hộ gia này thì người lớn tuổi không thể tham gia việc khai thác công dụng của đất và trẻ nhỏ chưa có đóng góp gì vào việc khai thác công dụng của thửa đất.
Thứ tư, xác định công sức đóng góp để tạo lập quyền sử dụng đất đối với thành viên trong hộ gia đình sử dụng đất. Khi đất được cấp cho hộ thì những người đang sống cùng nhau sẽ trở thành những người cùng sử dụng cho dù không có đóng góp hình thành nên tài sản. Bởi pháp luật hiện hành chỉ quy định thời điểm và mối quan hệ để xác định tư cách thành viên mà không xét đến công sức đóng góp.
Để khắc phục những bất cập nêu trên, hướng đề xuất như sau: cần phải xác định rõ ràng, cụ thể thành viên hộ gia đính sử dụng đất khi Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lần đầu tiên cho hộ. Để được cùng ghi tên trên gi