KỶ PHẦN THỪA KẾ
“Kỷ phần thừa kế” là một cụm từ khá xa lạ đối với nhiều người. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay cũng không chính thức nhắc đến cụm từ này. Tuy nhiên, trong đời sống, đôi khi chúng ta vẫn bắt gặp một số văn bản do người dân tự lập (nhất là thời gian trước năm 1990) như “Văn bản phân chia kỷ phần thừa kế”, “Đơn kiện đòi kỷ phần thừa kế”.v.v…
Vậy kỷ phần thừa kế là gì? Thực ra khá đơn giản, kỷ phần thừa kế là phần thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, mà theo quy định của pháp luật.
Thừa kế theo di chúc là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo ý chí của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc. Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình.
Tuy nhiên, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người dân, pháp luật có quy định về những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Cụ thể, Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã quy định về vấn đề này như sau:
“Điều 644. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1. Những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
a) Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
b) Con thành niên mà không có khả năng lao động.
2. Quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật này.”
Như vậy, để hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc cần đáp ứng những điều kiện:
Thứ nhất, thuộc hàng thừa kế thứ nhất là con chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động, cha, mẹ, vợ, chồng.
Thứ hai, người lập di chúc không cho họ hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba của một suất nếu di sản được chia theo pháp luật.
Thứ ba, không thuộc trường hợp từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 Bộ luật dân sự.
Thứ tư, không thuộc trường hợp những người không có quyền hưởng di sản (Khoản 1, Điều 621 Bộ Luật Dân sự):
+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Ví dụ: Ông Nguyễn Văn H có 03 người con, tuy nhiên ông nghi ngờ người con út (mới 15 tuổi) không phải con ruột mà do vợ ông ngoại tình với người khác. Do đó, lúc lập di chúc, ông không để lại tài sản cho con út. Khi ông mất, người con này theo quy định của pháp luật là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, tức là người có quyền được hưởng “kỷ phần thừa kế”; hay nói rõ là được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
Nguyễn Bích Thủy