10/11/2019 02:09
|
Một số vướng mắc khi áp dụng hình thức xử lý văn bản ngưng hiệu lực một phần hoặc toàn bộ văn bản theo Nghị định 34/2016
Một số vướng mắc khi áp dụng hình thức xử lý văn bản ngưng hiệu lực một phần hoặc toàn bộ văn bản theo Nghị định 34/2016 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP ngày 14/5/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các hình thức xử lý văn bản được rà soát bao gồm: Bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần văn bản; Thay thế văn bản; Sửa đổi, bổ sung văn bản; Ban hành văn bản mới; Đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ nội dung văn bản; Ngưng hiệu lực một phần hoặc toàn bộ văn bản. Trong đó, việc ngưng hiệu lực một phần hoặc toàn bộ văn bản trong một thời hạn nhất định được áp dụng trong trường hợp rà soát văn bản căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh.
Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức xử lý văn bản được rà soát này trên thực tế gặp phải một số vướng mắc như sau: Thứ nhất, căn cứ áp dụng hình thức ngưng hiệu lực một phần hoặc toàn bộ văn bản. Ngưng hiệu lực một phần hoặc toàn bộ văn bản trong một thời hạn nhất định được áp dụng trong trường hợp rà soát văn bản căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế - xã hội để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh. Theo đó, tại Điều 146 Nghị định 34/2016/NĐ-CP quy định tình hình phát triển kinh tế - xã hội là căn cứ rà soát văn bản được xác định trên cơ sở các tài liệu, thông tin sau: 1. Điều lệ, cương lĩnh, nghị quyết, thông tri, chỉ thị, tài liệu chính thức khác của Đảng; văn bản, tài liệu chính thức của cơ quan nhà nước có thẩm quyền liên quan đến văn bản được rà soát; 2. Kết quả điều tra, khảo sát; thông tin kinh tế - xã hội; số liệu và báo cáo thống kê; thông tin, số liệu thực tiễn, tài liệu khác liên quan đến văn bản được rà soát do cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố. Tuy nhiên, việc đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở “Kết quả điều tra, khảo sát; thông tin kinh tế - xã hội; số liệu và báo cáo thống kê; thông tin, số liệu thực tiễn, tài liệu khác liên quan đến văn bản được rà soát do cơ quan nhà nước có thẩm quyền công bố” đối với địa phương là tương đối phức tạp, khó thực hiện.
Thứ hai, về thẩm quyền ban hành văn bản ngưng hiệu lực văn bản QPPL. Theo quy định tại Điểm b Khoản 1 Điều 153 Luật năm 2015 thì“cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật quyết định ngưng hiệu lực của văn bản đó trong một thời hạn nhất định để giải quyết các vấn đề phát sinh”. Thực tế ở địa phương cho thấy, nếu văn bản cần ngưng hiệu lực là Nghị quyết do HĐND ban hành thì thông thường phải chờ đến khi HĐND họp kỳ gần nhất mới có thể quyết định. Trong khi đó, ngưng hiệu lực văn bản QPPL là việc cần làm ngay để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh. Nếu chờ đến kỳ họp gần nhất của HĐND thì sẽ không đảm bảo tính kịp thời trong việc ngưng hiệu lực của văn bản QPPL do HĐND ban hành. Thứ ba, thời hạn ngưng hiệu lực một phần hoặc toàn bộ văn bản. Khoản 2 Điều 153 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Thời điểm ngưng hiệu lực, tiếp tục có hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực của văn bản phải được quy định rõ tại văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền”. Tuy nhiên, trên thực tế quy định này đôi khi khó thực hiện. Bởi lẽ việc xác định rõ thời điểm tiếp tục có hiệu lực của văn bản hoặc hết hiệu lực của văn bản trong một số trường hợp không hề đơn giản. Thông thường, khi tình hình kinh tế - xã hội thay đổi thì có thể xác định được thời
|
|
|
|
|
|