17/05/2013 15:06        

Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13

BỘ TƯ PHÁP

VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

 

BỘ TÀI CHÍNH

TỔNG CỤC THUẾ


ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế
số 21/2012/QH13

 

PHẦN I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT QUẢN LÝ THUẾ

- Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, trong lĩnh vực quản lý thuế đã phát sinh một số vấn đề cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp .

- Việc thay đổi và bổ sung các luật về chính sách thuế và những vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thực hiện Luật quản lý thuế cho thấy có một số nội dung chưa cụ thể, chưa phù hợp và chưa sát thực tế. Vì vậy, để tăng cường tính hiệu lực, khả thi và thống nhất với các văn bản có liên quan, Luật cần tiếp tục được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung; thực hiện chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về thực hiện đơn giản hoá thủ tục hành chính, phải tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thuế, đi đôi với việc tạo cơ sở pháp lý để thực hiện hiện đại hoá công tác quản lý thuế như kê khai thuế điện tử, hải quan điện tử, giao dịch với cơ quan quản lý thuế thông qua phương tiện điện tử....

- Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Ngoài những tác động tích cực, hội nhập cũng làm xuất hiện những thách thức, ảnh hưởng tiêu cực cho công tác quản lý thuế (như dàn xếp tránh thuế, chuyển giá,...). Tình hình đó đòi hỏi công tác quản lý thuế phải được tiếp tục hoàn thiện về thẩm quyền, biện pháp quản lý để phù hợp hơn với các chuẩn mực, thông lệ và cam kết quốc tế, góp phần tăng cường quản lý, giám sát công tác quản lý thuế nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia về quyền thu thuế.

            Xuất phát từ những lý do trên, việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế là rất cần thiết.

 

PHẦN II. MỤC TIÊU, YÊU CẦU CỦA VIỆC XÂY DỰNG LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT QUẢN LÝ THUẾ

1. Mục tiêu

- Tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, minh bạch; tạo thuận lợi, giảm chi phí, thời gian của người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế; khuyến khích và tạo điều kiện cho người nộp thuế thực hiện tốt cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế.

- Thúc đẩy công tác hiện đại hoá hệ thống thuế, hải quan theo hướng thực hiện cơ chế quản lý rủi ro, đẩy mạnh quản lý thuế điện tử, tăng cường vai trò của tổ chức, cá nhân có liên quan; đáp ứng yêu cầu hội nhập và đồng bộ với các cam kết quốc tế.

- Khắc phục kịp thời hạn chế trong thực tiễn quản lý thuế; tăng cường các biện pháp quản lý kiểm tra, giám sát, hậu kiểm để nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý hành chính thuế nhằm chống thất thu ngân sách, giảm nợ thuế; thực hiện thu đúng, đủ, kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước.

2. Yêu cầu

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế nhằm đáp ứng các yêu cầu sau:

- Đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế theo Nghị quyết số 57/2010/QH12 ngày 26/11/2010 của Quốc hội về kết quả giám sát việc cải cách thủ tục hành chính được cụ thể hoá tại Nghị quyết số 25/NQ-CP và Nghị quyết số 68/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ về đơn giản hoá thủ tục hành chính.

- Phù hợp với quá trình phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa; Chủ động đáp ứng xu hướng, yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

- Khắc phục một số vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện để bảo đảm thực hiện đồng bộ, bảo đảm tính thống nhất của Luật.

- Tạo cơ sở pháp lý để góp phần thực hiện Nghị quyết số 11/2011/QH13 ngày 8/11/2011 của Quốc hội về phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2011 – năm 2015 (về nội dung thực hiện nhiệm vụ thu Ngân sách Nhà nước), đảm bảo phù hợp với Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011 – 2020 ban hành theo Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/05/2011 của Thủ tướng Chính phủ và Chiến lược phát triển hệ thống hải quan đến năm 2020 ban hành theo Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ.

 

PHẦN III. NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT QUẢN LÝ THUẾ  SỐ 21/2012/QH13

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế sửa đổi 36 Điều trong tổng số 120 Điều của Luật Quản lý thuế số 78/2006/QH11 và điều chỉnh 2 nội dung về kĩ thuật văn bản. Những nội dung sửa đổi, bổ sung liên quan đến 3 nhóm vấn đề lớn sau đây:

(1) Nhóm vấn đề về đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế gồm 5 nội dung, trong đó chủ yếu liên quan đến các nội dung sửa đổi theo yêu cầu của Nghị quyết số 57/2010/QH12 của Quốc hội; Nghị quyết số 25/NQ-CP, Nghị quyết số 68/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ.

 (2) Nhóm vấn đề về phục vụ mục tiêu cải cách - hiện đại hoá và hội nhập, phù hợp thông lệ quốc tế gồm 5 nội dung.

 (3) Nhóm vấn đề về nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý thuế để phù hợp với thực tế và phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan nhằm chống thất thu ngân sách, giảm nợ đọng thuế gồm 11 nội dung.

 

A. Nhóm vấn đề đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế

1. Giảm tần suất kê khai thuế giá trị gia tăng từ 12 lần/năm xuống còn 4 lần/năm đối với người nộp thuế quy mô vừa và nhỏ.

Nghị quyết số 57/2010/QH12 của Quốc hội, Nghị quyết số 25/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ yêu cầu tạo thuận lợi cho người nộp thuế (NNT) quy mô nhỏ và vừa (bao gồm doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ, cá nhân kinh doanh) được kê khai thuế giá trị gia tăng (GTGT) 03 tháng/lần, các doanh nghiệp lớn kê khai thuế GTGT 01 tháng/lần. Luật hiện hành chỉ quy định khai theo tháng, theo năm, tạm tính theo quý hoặc theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế, chưa có quy định khai theo quý. Vì vậy, Luật bổ sung tại Điều 31 về hồ sơ khai thuế theo quý và các nội dung liên quan đến việc khai thuế theo quý tại  Khoản 1 Điều 32 (thời gian khai thuế), Khoản 2 Điều 33 (thời gian gia hạn nộp hồ sơ khai) cho phù hợpGiao Chính phủ quy định tiêu chí xác định người nộp thuế để kê khai theo quý.

2. Rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế từ 5 ngày làm việc xuống 3 ngày làm việc.

Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ về việc rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế từ 5 ngày làm việc xuống 3 ngày làm việc, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 33 về Gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo hướng rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục gia hạn nộp hồ sơ khai thuế để đáp ứng nội dung này.

3. Sửa đổi, bổ sung một số nội dung cơ bản liên quan vấn đề hoàn thuế như sau:

- B “Chứng từ nộp thuế” trong hồ sơ hoàn thuế; Quy định người nộp thuế chỉ phải nộp 01 bộ hồ sơ đề nghị hoàn thuế.

Nghị quyết 25/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ kiến nghị bỏ “Chứng từ nộp thuế” trong hồ sơ hoàn thuế (do cơ quan thuế đã có chứng từ này, nên không yêu cầu người nộp thuế nộp cho cơ quan thuế những chứng từ cơ quan thuế đã có). Đồng thời, Nghị quyết số 25/NQ-CP yêu cầu làm rõ chỉ nộp 01 bộ hồ sơ hoàn thuế  do vậy Luật sửa đổi Điều 58 về Hồ sơ hoàn thuế theo các yêu cầu trên.

- Rút ngắn thời hạn giải quyết hoàn thuế.

Về thời hạn hoàn thuế, Nghị quyết số 25/NQ-CP yêu cầu: Rút ngắn thời hạn giải quyết đối với trường hợp “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” từ 15 ngày làm việc xuống còn 06 ngày làm việc; trường hợp “kiểm tra trước, hoàn thuế sau” từ 60 ngày xuống còn 40 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ. Luật sửa đổi Điều 60 về trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong việc giải quyết hồ sơ hoàn thuế để đáp ứng nội dung này, theo đó đối với trường hợp “hoàn thuế trước, kiểm tra sau” thời hạn hoàn thuế giảm từ 15 ngày làm việc xuống còn 06 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ hoàn thuế, “kiểm tra trước, hoàn thuế sau” từ 60 ngày xuống còn 40 ngày kể từ ngày nhận được đủ hồ sơ hoàn thuế.

- Quy định cụ thể các trường hợp kiểm tra trước, hoàn thuế sau.

Luật hiện hành quy định phân loại hồ sơ hoàn thuế theo hai loại: (a) Hồ sơ hoàn thuế trước, kiểm tra sau; (b) Hồ sơ kiểm tra trước, hoàn thuế sau. Giao Chính phủ quy định cụ thể việc phân loại hồ sơ thuộc diện hoàn thuế trước, kiểm tra sau, như vậy các trường hợp còn lại sẽ thuộc diện kiểm tra trước, hoàn thuế sau.

Trong thực tế cho thấy khi áp dụng quản lý rủi ro và tạo thuận lợi hoàn thuế nhanh trên cơ sở kê khai của người nộp thuế thì các trường hợp kiểm tra trước, hoàn thuế sau sẽ được giảm dần (ít hơn các trường hợp được hoàn thuế trước, kiểm tra sau). Vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ thể các trường hợp thuộc diện kiểm tra trước, hoàn thuế sau tại Điều 60.

- Về kiểm tra sau hoàn thuế: Bổ sung quy định cơ quan thuế phải kiểm tra trong thời hạn 01 năm kể từ khi có quyết định hoàn thuế đối với 4 đối tượng có độ rủi ro bao gồm:

+ Cơ sở kinh doanh kê khai lỗ hai năm liên tục hoặc có số lỗ vượt quá vốn chủ sở hữu;

+ Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế từ hoạt động kinh doanh bất động sản; kinh doanh thương mại, dịch vụ;

+ Cơ sở kinh doanh thay đổi trụ sở từ hai lần trở lên trong vòng mười hai tháng kể từ ngày có quyết định hoàn thuế trở về trước;

+  Cơ sở kinh doanh có sự thay đổi bất thường giữa doanh thu tính thuế và số thuế được hoàn trong giai đoạn mười hai tháng, kể từ ngày có quyết định hoàn thuế trở về trước.

Các trường hợp còn lại, việc kiểm tra sau hoàn thuế được thực hiện theo nguyên tắc quản lý rủi ro trong thời hạn 10 năm, kể từ ngày có quyết định hoàn thuế.

Nội dung cụ thể được thể hiện tại Điều 60 của Luật.

4. Thay Tờ khai quyết toán thuế trong hồ sơ đề nghị xóa nợ đối với trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản.

Luật hiện hành quy định trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản thì hồ sơ xoá nợ tiền thuế phải có Tờ khai quyết toán thuế. Trong trình tự xử lý phá sản, cơ quan thuế đã tham gia xác định các khoản nợ thuế và Quyết định tuyên bố phá sản của Toà án là quyết định có hiệu lực pháp lý.

Để giảm thủ tục hành chính và phù hợp với quy định của pháp luật phá sản, Luật sửa đổi Khoản 2 Điều 66 theo hướng quy định hồ sơ xoá nợ tiền thuế, tiền phạt đối với trường hợp doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản sẽ sử dụng Quyết định tuyên bố phá sản thay cho Tờ khai quyết toán thuế. 

5.  Xử lý số tiền thuế, tiền phạt nộp thừa

Thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP năm 2010 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung tên thủ tục “Xử lý tiền thuế nộp thừa” thành tên “Xử lý tiền thuế, tiền phạt nộp thừa”, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 47 để đáp ứng nội dung này. Đồng thời sửa đổi thời hiệu xử lý tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa là 10 năm để đồng bộ với việc sửa đổi thời hiệu truy thu thu thuế tại khoản 3 Điều 110 Luật (thời hiệu truy thu là 10 năm).

 

B. Nhóm vấn đề phục vụ mục tiêu cải cách - hiện đại hoá và hội nhập, phù hợp thông lệ quốc tế

1. Bổ sung nguyên tắc quản lý rủi ro trong công tác quản lý thuế, làm cơ sở áp dụng thống nhất các k thuật, nghiệp vụ quản lý thuế tiên tiến.

Luật hiện hành chưa có quy định chung về nguyên tắc quản lý rủi ro để phân loại người nộp thuế nhằm đưa ra biện pháp quản lý chặt chẽ đối với người nộp thuế có rủi ro cao và có biện pháp ưu tiên đối với doanh nghiệp tuân thủ tốt pháp luật thuế để tạo điều kiện cho việc phân bổ nguồn lực hợp lý giữa các chức năng quản lý thuế.

Để phù hợp với chuẩn mực quốc tế và kết quả thực hiện thí điểm đã được người nộp thuế đánh giá cao; có cơ sở pháp lý thực hiện thống nhất nguyên tắc quản lý rủi ro; Luật bổ sung thêm khoản 4 vào Điều 4 (Nguyên tắc quản lý thuế) để quy định nguyên tắc áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế, nguyên tắc quản lý thuế đối với người nộp thuế đáp ứng các tiêu chí xếp hạng ưu tiên, và bổ sung thêm một khoản (khoản 10) vào Điều 5 về khái niệm “Quản lý rủi ro trong lĩnh vực quản lý thuế” trên cơ sở tham khảo quy định của ISO 3100 và tài liệu hướng dẫn quản lý rủi ro trong ngành thuế của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) và của Tổ chức Hải quan quốc tế.

Cụ thể, Luật bổ sung các quy định sau:

- Bổ sung khoản 4 vào Điều 4 (Nguyên tắc quản lý thuế) như sau:

“4. Áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế:

a) Việc áp dụng cơ chế quản lý rủi ro trong quản lý thuế bao gồm: thu thập thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế; xây dựng các bộ tiêu chí quản lý thuế; đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế; đề xuất, áp dụng các biện pháp quản lý thuế;

 b) Cơ quan quản lý thuế quản lý, ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để đánh giá rủi ro về thuế, mức độ tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, lựa chọn đối tượng kiểm tra, thanh tra về thuế và hỗ trợ các hoạt động nghiệp vụ khác trong quản lý thuế;

- Bổ sung khoản 10 vào Điều 5 (Giải thích từ ngữ) như sau:

“10. Quản lý rủi ro trong quản lý thuế là việc áp dụng có hệ thống các quy định pháp luật, các quy trình nghiệp vụ để xác định, đánh giá và phân loại các rủi ro có thể tác động tiêu cực đến hiệu quả, hiệu lực quản lý thuế, làm cơ sở để cơ quan quản lý thuế  phân bổ nguồn lực hợp lý, áp dụng các biện pháp quản lý hiệu quả.

2. Bổ sung cơ chế thoả thuận trước về phương pháp xác định giá (APA) trong chống chuyển giá ở các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.

Tham gia quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ngày càng đầu tư nhiều vào Việt Nam, tuy nhiên nhiều doanh nghiệp nộp thuế không tương xứng với thực tế sản xuất kinh doanh, thậm chí có tình trạng khai lỗ nhiều năm nhưng vẫn tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân chính là do doanh nghiệp thực hiện chuyển giá.

Trên thực tế, quá trình thanh tra chống chuyển giá thường rất phức tạp, phải chứng minh được sự bất hợp lý về giá, phải tìm được dữ liệu thông tin trong, ngoài  nước.... So với việc kiểm tra, thanh tra chống chuyển giá (ít nhiều mang tính đối kháng), thì việc áp dụng APA sẽ đạt hiệu quả, do các bên cùng hợp tác để đạt thoả thuận chung. APA có các điểm thuận lợi như: Giảm chi phí tuân thủ thuế, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ chứng từ; Cơ quan thuế chủ động hơn trong việc hành thu vì APA có sự đảm bảo nhất định về khả năng thu; Tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong lập kế hoạch kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ thuế.

            Để có cơ sở áp dụng APA, Luật bổ sung quy định cho phép cơ quan thuế được áp dụng cơ chế thoả thuận trước về phương pháp xác định giá với NNT và cơ quan thuế có ký kết Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam. Các nội dung này được thể hiện cụ thể tại Luật như sau:

- Bổ sung khoản 11 vào Điều 5 (Giải thích từ ngữ) như sau:

 “11. Thoả thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế là thoả thuận bằng văn bản giữa cơ quan thuế với người nộp thuế hoặc giữa cơ quan thuế với người nộp thuế và cơ quan thuế các nước, vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế thu nhập cho một  thời hạn nhất định, trong đó xác định cụ thể các căn cứ tính thuế, phương pháp xác định giá tính thuế hoặc giá tính thuế theo giá thị trường. Thoả thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế được xác lập trước khi người nộp thuế nộp hồ sơ khai thuế.

- Bổ sung khoản 9 vào Điều 9 (Quyền hạn của cơ quan quản lý thuế ) như sau:

 “9. Cơ quan thuế áp dụng cơ chế thoả thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế với người nộp thuế, với cơ quan thuế các nước, vùng lãnh thổ mà Việt Nam đã ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với thuế thu nhập.”

- Bổ sung khoản 3 vào Điều 30 (Nguyên tắc khai thuế và tính thuế) như sau:

3. Việc áp dụng cơ chế thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế được thực hiện trên cơ sở đề nghị của người nộp thuế và sự thống nhất giữa cơ quan thuế và người nộp thuế theo thỏa thuận đơn phương, song phương và đa phương giữa cơ quan thuế, người nộp thuế và cơ quan thuế các nước, vùng lãnh thổ có liên quan.

Chính phủ quy định chi tiết khoản này.”

3. Bổ sung quy định về cơ chế phân loại mã số, xác định trị giá, xác định xuất xứ hàng hóa trước khi làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu.

 Công ước Kyoto (Việt Nam đã tham gia) khuyến nghị cơ quan Hải quan cho  phép doanh nghiệp được áp dụng cơ chế phân loại trước về mã số, xác định trị giá tính thuế, xuất xứ hàng hoá trước khi làm thủ tục xuất nhập khẩu. Đây là chuẩn mực quốc tế về tạo thuận lợi thương mại, giúp doanh nghiệp chủ động tính toán trước hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí tuân thủ thuế; giúp cơ quan hải quan tăng cường hiệu quả quản lý hành thu; giảm tối đa các trường hợp tranh chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan hải quan về việc áp mã, xác định giá tính thuế, xuất xứ hàng hoá khi làm thủ tục thông quan.

Tuy nhiên Luật hiện hành chưa có quy định về các nội dung này, do đó Luật bổ sung nội dung xác định trước về trị giá tính thuế, mã số, xuất xứ hàng hóa vào các Điều 6 (Quyền của người nộp thuế), Điều 8 (Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế) và bổ sung các nội dung định nghĩa về các khái niệm mới này vào Điều 5 (Giải thích từ ngữ), cụ thể như sau:

-         Bổ sung các khoản 12 vào Điều 5 như sau:

“12. Xác định trước mã số, trị giá hải quan, xác nhận trước xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu là việc cơ quan hải quan ban hành văn bản xác định mã số, trị giá hải quan, xác nhận xuất xứ của hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trước khi làm thủ tục hải quan.”

-         Khoản 2 Điều 6 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“2. Yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích về việc tính thuế, ấn định thuế; yêu cầu cơ quan hải quan xác định trước mã số, trị giá hải quan, xác nhận trước xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trước khi làm thủ tục hải quan theo quy định của Chính phủ; yêu cầu cơ quan, tổ chức giám định số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu.”

-  Khoản 3 Điều 8 được sửa đổi, bổ sung như sau:

“3. Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm giải thích, cung cấp thông tin liên quan đến việc xác định nghĩa vụ thuế cho người nộp thuế; cơ quan thuế có trách nhiệm công khai mức thuế phải nộp của hộ gia đình, cá nhân kinh doanh trên địa bàn xã, phường, thị trấn; cơ quan hải quan có trách nhiệm xác định trước mã số,  trị giá hải quan, xác nhận trước xuất xứ hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu trước khi làm thủ tục hải quan theo quy định của Chính phủ.”

4. Mở rộng phạm vi khai thác, sử dụng thông tin về người nộp thuế từ nguồn nước ngoài theo các hiệp định, điều ước đã ký để phục vụ hiệu quả công tác quản lý thuế.

Việc hội nhập và mở cửa nền kinh tế đã làm cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng đa dạng và mở rộng về phạm vi. Bên cạnh những kết quả đạt được, đã phát sinh những mặt tiêu cực, hạn chế cần có biện pháp phòng, chống hiệu quả (như các biện pháp dàn xếp tránh thuế, giả mạo doanh nghiệp, đối tác, lừa đảo trong kinh doanh...). Do đó, cơ quan thuế các nước hiện đang tăng cường công tác trao đổi thông tin trên cơ sở các điều ước quốc tế để cùng đấu tranh chống gian lận thuế. Thực tế hiện nay, cơ quan thuế Việt Nam vẫn nhận được các thông tin từ phía nước ngoài nhưng chưa có văn bản quy phạm pháp luật cho phép sử dụng các thông tin này trong việc xử lý các vấn đề về thuế. Vì vậy, Luật bổ sung nội dung cho phép cơ quan quản lý thuế được thu thập, trao đổi và sử dụng các thông tin do các đối tác nước ngoài cung cấp trên cơ sở các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia (Khoản 2, Điều 70). Cụ thể như sau:

“2. Cơ quan quản lý thuế áp dụng các biện pháp nghiệp vụ cần thiết để thu thập, trao đổi, xử lý thông tin trong nước, ngoài nước, thông tin chính thức từ các cơ quan quản lý thuế, cơ quan có thẩm quyền ở nước ngoài theo các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, các văn bản ký kết giữa Việt Nam và các nước liên quan đến lĩnh vực thuế, hải quan để sử dụng trong công tác quản lý thuế.”

5. Bổ sung nghĩa vụ của người nộp thuế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin để nâng cao quản trị doanh nghiệp cũng như phát triển phương thức quản lý thuế điện tử.

 Hiện nay, ngành thuế và ngành hải quan đang từng bước ứng dụng điện tử khi thực hiện các thủ tục về thuế (đăng ký, kê khai,...) và đang tích cực hoàn thiện cơ sở hạ tầng thông tin để từng bước chuyển sang phương thức quản lý thuế dựa trên cơ sở dữ liệu người nộp thuế tập trung, thống nhất, tự động và tích hợp theo mục tiêu Chiến lược cải cách hiện đại hoá ngành thuế, ngành hải quan giai đoạn 2011-2020 (đã được Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 17/05/2011 và Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011). Việc quản lý thuế theo phương thức điện tử sẽ giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả và tính liêm chính trong thực thi pháp luật thuế.

Tại Điều 19 Luật hiện hành đã có quy định về vấn đề hiện đại hoá công tác quản lý thuế, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin, khuyến khích tổ chức cá nhân thực hiện giao dịch điện tử và quản lý thuế điện tử. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của phương thức quản lý điện tử là phải có sự phối hợp chặt chẽ từ hai phía nên để tạo điều kiện phát triển phương thức quản lý thuế điện tử cần thiết bổ sung quy định nghĩa vụ của người nộp thuế trong việc ứng dụng công nghệ thông tin để tham gia quá trình quản lý thuế điện tử. Theo đó Luật bổ sung khoản 10 Điều 7 như sau: “10. Trường hợp người nộp thuế là tổ chức kinh doanh tại địa bàn có cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin phải thực hiện kê khai, nộp thuế, giao dịch với cơ quan quản lý thuế thông qua phương tiện điện tử theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử. Chính phủ quy định chi tiết khoản này.”

C. Nhóm vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý thuế để phù hợp với thực tế và các văn bản pháp luật có liên quan nhằm chống thất thu ngân sách, giảm nợ đọng thuế

1. Thời hạn nộp thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

Điều 42 Luật hiện hành quy định về thời hạn nộp thuế xuất nhập khẩu đã giúp doanh nghiệp chủ động và linh hoạt sử dụng các luồng tiền để nộp thuế. Tuy nhiên, trên thực tế, do cơ chế thông thoáng trong việc thành lập doanh nghiệp và doanh nghiệp có thể không thường xuyên thực hiện xuất khẩu, nhập khẩu, nên có tình trạng lợi dụng chính sách để chây ỳ nợ thuế, sau đó bỏ trốn hoặc tự giải thể. Đồng thời quy định này dẫn đến sự bất lợi cho hàng hoá sản xuất trong nước so với hàng nhập khẩu.

Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đa số các nước không cho nợ thuế đối với hàng hoá nhập khẩu, phải nộp thuế trước khi nhận hàng (Thái Lan, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Campuchia, Lào...); Một số nước cho chậm nộp thuế nhưng phải có bảo lãnh (Anh), hoặc cho nộp chậm với điều kiện có tài khoản do cơ quan Hải quan quản lý để đảm bảo việc nộp thuế (New Zealand).

Để khắc phục tình trạng trên, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế điều chỉnh nội dung về thời hạn nộp thuế như sau: Thời hạn nộp thuế (không cần bảo lãnh) là 275 ngày đối với hàng hóa nhập khẩu là vật tư, nguyên liệu để sản xuất xuất khẩu trong trường hợp người nộp thuế đáp ứng các điều kiện: (i) Có cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu; (ii) Có hoạt động xuất nhập khẩu tối thiểu 02 năm tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan; Trong khoảng thời gian này không có hành vi gian lận thương mại, hành vi trốn thuế, không nợ tiền thuế quá hạn, tiền chậm nộp, tiền phạt; Chấp hành tốt chế độ báo cáo tài chính theo quy định của pháp; (iii) Thực hiện thanh toán qua ngân hàng theo quy định của pháp luật.

Các trường hợp còn lại phải được tổ chức tín dụng bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ nộp thuế hoặc phải nộp thuế trước khi thông quan, giải phóng hàng.

Cụ thể nội dung này được quy định tại Khoản 3 Điều 42 như sau:

3. Thời hạn nộp thuế đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu được quy định như sau:

a) Hàng hóa là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu, thời hạn nộp thuế tối đa là hai trăm bảy lăm ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan nếu doanh nghiệp đáp ứng đủ các điều kiện sau đây:

- Có cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam;

- Có hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu trong thời gian ít nhất hai năm liên tục tính đến ngày đăng ký tờ khai hải quan mà không có hành vi gian lận thương mại, trốn thuế; nợ tiền thuế quá hạn, tiền chậm nộp, tiền phạt;

- Tuân thủ pháp luật về kế toán, thống kê;

- Thực hiện thanh toán qua ngân hàng theo quy định của pháp luật.

Trường hợp không đáp ứng các điều kiện nêu trên nhưng được tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế theo thời hạn bảo lãnh, nhưng không quá hai trăm bảy lăm ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan và không phải nộp tiền chậm nộp trong thời hạn bảo lãnh.

Trường hợp không đáp ứng các điều kiện nêu trên hoặc không được tổ chức tín dụng bảo lãnh thì phải nộp thuế trước khi được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa;

b) Hàng hóa kinh doanh tạm nhập, tái xuất phải nộp thuế trước khi hoàn thành thủ tục hải quan tạm nhập khẩu hàng hóa.

Trường hợp được tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế phải nộp thì thời hạn nộp thuế theo thời hạn bảo lãnh nhưng không quá mười lăm ngày, kể từ ngày hết thời hạn tạm nhập, tái xuất và không phải nộp tiền chậm nộp trong thời hạn bảo lãnh;

c) Hàng hóa không thuộc điểm a, điểm b khoản này thì phải nộp thuế trước khi thông quan hoặc giải phóng hàng hóa.

Trường hợp được tổ chức tín dụng bảo lãnh số thuế phải nộp thì được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa nhưng phải nộp tiền chậm nộp kể từ ngày được thông quan hoặc giải phóng hàng hóa đến ngày nộp thuế theo quy định tại Điều 106 của Luật này. Thời hạn bảo lãnh tối đa là ba mươi ngày, kể từ ngày đăng ký tờ khai hải quan;

d) Các trường hợp đã được tổ chức tín dụng bảo lãnh nhưng hết thời hạn bảo lãnh mà người nộp thuế chưa nộp thuế và tiền chậm nộp (nếu có), thì tổ chức nhận bảo lãnh có trách nhiệm nộp đủ thuế và tiền chậm nộp thay cho người nộp thuế.”

2. Thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền phạt

Điều 45 Luật hiện hành quy định thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền phạt như sau: Tiền thuế nợ, tiền thuế truy thu, tiền thuế phát sinh, tiền phạt.

Tuy nhiên, trong thực tế quản lý hải quan, trên cơ sở phối hợp với Điều 92 (quy định cưỡng chế thuế đối với khoản nợ trên 90 ngày), thì tiền nợ thuế được chia thành nhiều loại: có nợ quá hạn trên 90 ngày, dưới 90 ngày (chưa thực hiện cưỡng chế). Để nâng cao hiệu quả quản lý nợ, kinh nghiệm các nước và thực tế cho thấy cần thực hiện thu hồi trước những khoản nợ quá hạn, nhằm giảm nợ xấu và giảm thiểu các vụ việc phải cưỡng chế.

Để xử lý vấn đề trên, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 45 theo hướng tách riêng thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt do cơ quan thuế quản lý và cơ quan hải quan quản lý. Đối với các loại thuế do cơ quan hải quan quản lý ưu tiên thu trước đối với tiền thuế nợ quá hạn, tiền lãi chậm nộp trong các trường hợp đến hạn cưỡng chế nhằm giảm nợ xấu và giảm thiểu các vụ việc phải cưỡng chế thuế.

3. Gia hạn nộp thuế

- Điều 49 Luật hiện hành quy định các trường hợp được gia hạn nộp thuế:

“1. Bị thiệt hại vật chất, gây ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh do gặp thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn bất ngờ;

2. Không có khả năng nộp thuế đúng hạn do gặp khó khăn đặc biệt khác theo quy định của Chính phủ”.

- Nghị định số 85/2007/NĐ-CP và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật quản lý thuế có quy định chi tiết thêm các trường hợp cụ thể theo Khoản 2, Điều 49 của Luật nêu trên.

Có ý kiến đề nghị đánh giá thực tiễn áp dụng các trường hợp được gia hạn nộp thuế để Luật hoá đối với một số trường hợp quy định tại Nghị định có tính chất ổn định lâu dài và phổ biến.

Qua rà soát với mục tiêu từng bước cụ thể hoá quy định của Luật đồng thời đảm bảo tính ổn định, Luật bổ sung việc gia hạn nộp thuế tại Khoản 1, Điều 49 đối với trường hợp: Phải ngừng hoạt động do di dời cơ sở sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất, kinh doanh; Chưa được thanh toán vốn đầu tư xây dựng đã được ghi trong dự toán ngân sách nhà nước;

4. Bổ sung quy định nộp dần tiền thuế đối với trường hợp người nộp thuế không có khả năng nộp đủ tiền thuế một lần

Qua thực tế công tác quản lý thuế cho thấy có nhiều trường hợp doanh nghiệp có số tiền nợ thuế hoặc bị truy thu thuế với số tiền lớn dẫn đến vượt quá khả năng doanh nghiệp có thể nộp một lần. Để hạn chế các trường hợp bị cưỡng chế thuế đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ thuế nên cho phép doanh nghiệp được nộp dần số tiền nợ thuế làm nhiều lần trong một khoảng thời gian nhất định mà chưa bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thuế nhưng có tính lãi chậm nộp và phải có bảo lãnh của ngân hàng. Như vậy việc cho phép nộp dần tiền thuế một mặt tạo thuận lợi hơn cho doanh nghiệp và mặt khác vẫn đảm bảo tiền thuế được nộp vào ngân sách nhà nước.

Luật bổ sung vào Điều 92 (Trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế) một Khoản cho phép người nộp thuế được nộp dần tiền thuế nợ trong thời hạn 12 tháng và phải nộp tiền chậm nộp là 0,05%/ngày trên số tiền được nộp dần (tương đương 1,5%/tháng, 18%/năm). Việc nộp dần tiền thuế được thực hiện trên cơ sở có cam kết của người nộp thuế và bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Các trường hợp được phép nộp dần tiền thuế thì chưa phải thực hiện biện pháp cưỡng chế thuế. Chính phủ quy định chi tiết về điều kiện, thủ tục và thẩm quyền quyết định.

            5. Về xoá nợ tiền thuế, tiền phạt

Điều 65 Luật hiện hành quy định cho phép xoá nợ tiền thuế, tiền phạt khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản; cá nhân được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự có nợ tiền thuế.

Trên thực tế, phạm vi xoá nợ nêu trên là khá hẹp và chưa phản ánh được thực tế khách quan về những trường hợp nợ xấu, khó có khả năng thu hồi, nhất là các khoản nợ tồn đọng trước ngày 1/7/2007 (thời điểm Luật quản lý thuế có hiệu lực thi hành). Đối với các trường hợp trên, cơ quan Thuế, Hải quan đã phối hợp với các cơ quan chức năng truy tìm đối tượng và đã áp dụng hết các biện pháp cưỡng chế trong thời gian dài nhưng không đạt kết quả (không thể xác định được các đối tượng để thu). Do đó dẫn tới số thuế còn tồn đọng không nhỏ do Luật hiện hành chưa có cơ chế để giải quyết.  

Để xử lý vấn đề trên, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 65, Điều 67 theo hướng cụ thể hoá thẩm quyền xoá nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với nợ không có khả năng thu hồi sau khi đã thực hiện tất cả các biện pháp cưỡng chế và các khoản nợ này đã kéo dài trong thời hạn 10 năm; thẩm quyền xoá nợ được phân cấp như sau: Thủ tướng Chính phủ xoá nợ đối với trường hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ mười tỷ đồng trở lên; Bộ trưởng Bộ Tài chính xoá nợ đối với  trường hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt từ năm tỷ đồng đến dưới mười tỷ đồng; Tổng cục trưởng Tổng cục thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục hải quan xoá nợ đối với trường hợp người nộp thuế nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt dưới năm tỷ đồng.

Đồng thời để có thể giải quyết dứt điểm các khoản nợ tồn tại cũ, Khoản 3 Điều 2 (Điều khoản thi hành) của Luật quy định:

“3. Đối với các khoản tiền thuế nợ, tiền phạt còn nợ không có khả năng thu hồi phát sinh trước ngày 01 tháng 7 năm 2007, Chính phủ tổ chức thực hiện xoá nợ và báo cáo Quốc hội kết quả đối với các trường hợp sau đây:

a) Tiền thuế nợ, tiền phạt của hộ gia đình, cá nhân gặp khó khăn, không thanh toán được nợ thuế, đã ngừng kinh doanh;

b) Tiền thuế nợ, tiền phạt của doanh nghiệp nhà nước đã có quyết định giải thể của cơ quan có thẩm quyền; tiền thuế nợ, tiền phạt của doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hóa hoặc chuyển đổi sở hữu và pháp nhân mới không chịu trách nhiệm đối với các khoản nợ thuế này. ”

6. Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế

-  Áp dụng biện pháp cưỡng chế thuế

Chương 11 của Luật hiện hành quy định 7 biện pháp cưỡng chế thuế và phải thực hiện tuần tự từng biện pháp. Trên thực tế, việc áp dụng tuần tự các biện pháp cưỡng chế như quy định hiện nay mất nhiều thời gian và mất cơ hội xử lý kịp thời biện pháp phù hợp nhất với tình huống. Ví dụ: đối tượng bị cưỡng chế còn tài sản, còn số dư tài khoản tại ngân hàng, nhưng khi cơ quan quản lý thuế thực hiện các thủ tục để xác minh số dư tại ngân hàng thì đối tượng bị cưỡng chế đã có đủ thời gian tẩu tán tài sản dẫn tới việc thực hiện các biện pháp cưỡng chế không đạt hiệu quả.

Các nước (như Úc, Thụy điển, ...) không bắt buộc thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo trình tự, mà hơn nữa còn cho phép thực hiện linh hoạt hoặc kết hợp  đồng thời các biện pháp để đảm bảo khả năng thu hồi nợ.

Luật sửa đổi, bổ sung các Điều 93, Điều 98 đến Điều 102 để phản ánh các nội dung: (i) Bổ sung quy định về biện pháp cưỡng chế dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu; (ii) Thay đổi thứ tự các biện pháp cưỡng chế, cụ thể: đưa biện pháp dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và biện pháp đình chỉ sử dụng hóa đơn (đã được thay bằng biện pháp thông báo hoá đơn không còn giá trị sử dụng) lên trên biện pháp kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định của pháp luật; (iii) Trong trường hợp người nộp thuế có hành vi bỏ trốn, tẩu tán tài sản thì cơ quan quản lý thuế được lựa chọn áp dụng các biện pháp cưỡng chế phù hợp để đảm bảo thu hồi nợ thuế kịp thời cho ngân sách nhà nước; (iv) Sửa đổi quy định: không áp dụng cưỡng chế kê biên tài sản chỉ trong trường hợp người nộp thuế đang chữa bệnh ở cơ sở khám chữa bệnh được thành lập theo quy định của pháp luật Việt Nam (thay cho trường hợp người nộp thuế là cá nhân đang trong thời gian chữa bệnh như quy định hiện nay).

-  Bổ sung trình tự, thủ tục thi hành cưỡng chế thuế

Điều 100 của Luật hiện hành chưa quy định trình tự, thủ tục xử lý tài sản bị thu giữ (như thủ tục định giá, bán đấu giá, chi phí cho việc thuê thẩm định giá, xử lý tiền bán đấu giá...). Do đó việc áp dụng biện pháp này trong thời gian qua có nhiều khó khăn.

Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý thuế, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 100: Giao Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thực hiện biện pháp cưỡng chế thu tiền, tài sản của bên thứ ba (tương tự như biện pháp cưỡng chế kê biên bán đấu giá tài sản đã quy định tại Điều 99).

- Bổ sung trường hợp không áp dụng cưỡng chế bằng biện pháp dừng làm thủ tục hải quan

Điều 101 của Luật hiện hành về cưỡng chế thuế không quy định phân biệt đối với hàng hoá xuất nhập khẩu phục vụ an ninh quốc phòng, hàng hoá xuất nhập khẩu trong các trường hợp khẩn cấp khác và hàng hóa xuất khẩu không thuộc diện phải nộp thuế xuất khẩu.

Trên thực tế, do tính chất đặc thù của các hàng hoá an ninh quốc phòng và hàng hoá xuất nhập khẩu khắc phục hậu quả thiên tai, hàng hóa xuất khẩu không có thuế cần được ưu tiên về mặt thời gian, nên nếu áp dụng cưỡng chế bằng biện pháp dừng làm thủ tục hải quan sẽ là không phù hợp. Vì vậy Luật bổ sung khoản 3 Điều 101 theo hướng không thực hiện biện pháp dừng làm thủ tục hải quan đối với những hàng hóa đặc thù nêu trên.

7. Các chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về thuế

Tại các điều từ Điều 106 đến Điều 108 của Luật hiện hành quy định các mức xử phạt: 0,05%/ngày đối với số tiền thuế chậm nộp; 10% đối với số tiền thuế khai thiếu; phạt từ 1 lần đến 3 lần số tiền thuế trốn.

 Luật sửa đổi, bổ sung các Điều 106, Điều 107 theo hướng:  

+ Làm rõ tính chất khoản tiền phạt chậm nộp là khoản lãi chậm nộp tiền thuế; nâng mức xử phạt đối với hành vi chậm nộp tiền thuế theo mức luỹ tiến: 0,05%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp không quá 90 ngày, 0,07%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp đối với số ngày chậm nộp vượt quá thời hạn 90 ngày.

+ Nâng mức xử phạt về hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải nộp hoặc tăng số tiền thuế được hoàn: Đối với các loại thuế nội địa, tăng mức phạt từ 10% lên 20%. Đối với các loại thuế do hải quan quản lý, phạt 10% trong trường hợp người nộp thuế tự phát hiện và khai bổ sung trước khi cơ quan hải quan kiểm tra, thanh tra thuế; các trường hợp còn lại phạt 20%.

+ Cơ quan, tổ chức được cơ quan quản lý thuế uỷ nhiệm thu thuế chậm chuyển tiền thuế, tiền phạt của người nộp thuế vào ngân sách nhà nước thì phải nộp tiền chậm nộp đối với số tiền chậm chuyển.

8. Thời hiệu xử lý vi phạm pháp luật về thuế

Trước ngày 1/7/2007, các quy định về quản lý thuế trong đó có xử lý vi phạm pháp luật về thuế đều được quy định tại các luật chính sách như Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong đó, Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2003 có quy định thời hiệu truy thu thuế là 5 năm trở về trước. Tuy nhiên Luật quản lý thuế không đưa ra thời hiệu truy thu thuế có nghĩa là người nộp thuế sẽ bị truy thu thuế vô thời hạn. Trong khi đó, Luật kế toán quy định việc lưu trữ chứng từ kế toán giới hạn trong 10 năm. Để phù hợp với thực tế khi kiểm tra, thanh tra thuế nếu có truy thu thuế phải dựa trên chứng từ kế toán, Luật bổ sung Điều 110 quy định áp dụng thời hạn truy thu thuế là 10 năm trở về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện. Trường hợp người nộp thuế không đăng ký thuế thì phải nộp đủ số tiền thuế thiếu, số tiền thuế trốn, số tiền thuế gian lận cho toàn bộ thời gian trở về trước, kể từ ngày kiểm tra phát hiện hành vi vi phạm pháp luật thuế.

9. Kiểm tra thuế tại trụ sở của người nộp thuế

- Điều 77 và Điều 78 Luật hiện hành quy định kiểm tra thuế chủ yếu dựa trên các hồ sơ khai thuế của người nộp thuế và thực hiện kiểm tra theo các yếu tố. Tuy nhiên để đảm bảo giám sát sự tuân thủ pháp luật của người nộp thuế một cách khách quan, phòng chống hiện tượng cơ quan thuế chủ quan, thiếu căn cứ trong việc xác định danh sách đối tượng cần được kiểm tra, thanh tra thuế hàng năm; Luật bổ sung nội dung quy định nguyên tắc khách quan, khoa học hơn khi cơ quan thuế hàng năm lựa chọn các doanh nghiệp để tiến hành kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về thuế.

Đó là nguyên tắc thực hiện kiểm tra thuế dựa theo tiêu thức quản lý rủi ro về thuế qua phân tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế; lựa chọn theo ngành nghề, quy mô, địa bàn để kiểm tra; các trường hợp trong thực tế phát sinh dấu hiệu vi phạm pháp luật sẽ kiểm tra sử dụng hoá đơn, kiểm tra chống gian lận đầu cơ về giá cả; hoặc trường hợp doanh nghiệp có dấu hiệu bỏ trốn, tẩu tán kho hàng, tài sản…Các quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm để ngành thuế triển khai các chương trình kiểm tra sự tuân thủ hàng năm khi phân tích, đánh giá chung về hành vi tuân thủ pháp luật của từng nhóm người nộp thuế; đồng thời đảm bảo kiểm soát được mục đích kiểm tra, tránh lạm dụng, tiêu cực hoặc gây phiền hà cho người nộp thuế.

Để phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tình hình quản lý thực tế và nâng cao hiệu quả hiệu lực quản lý thuế, Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 78 quy định nguyên tắc kiểm tra thuế theo tiêu thức đánh giá rủi ro về thuế qua phân tích, đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế; thực hiện kiểm tra theo chuyên đề, kế hoạch kiểm tra hàng năm do thủ trưởng cơ quan thuế cấp trên phê duyệt và kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế trong một năm không quá một lần. 

10. Sửa đổi các nội dung về quản lý thuế để đồng bộ với các Luật khác

- Điều 32 Luật hiện hành quy định thời hạn nộp hồ sơ khai thuế: “Chậm nhất là ngày thứ mười, kể từ ngày phát sinh nghĩa vụ thuế đối với loại thuế khai và nộp theo từng lần phát sinh nghĩa vụ thuế”. Quy định này chưa phù hợp với khoản thu phí, lệ phí, thu ngân sách trong lĩnh vực đất đai do có đặc thù là việc xác định nghĩa vụ thuế phụ thuộc vào thời gian giải quyết hồ sơ pháp lý về sở hữu (ví dụ lệ phí trước bạ, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, ...). Luật thuế sử dụng đất phi nông nghiệp quy định giá đất tính thuế sử dụng đất phi nông nghiệp được ổn định 5 năm nếu không có sự thay đổi về người nộp thuế và số thuế phải nộp do vậy việc khai thuế cần quy định cho phù hợp.

- Điều 42 Luật hiện hành quy định “... thời hạn nộp thuế là thời hạn ghi trên thông báo thuế”. Tuy nhiên, quy định này là chưa phù hợp đối với các khoản thu về đất đai do thông báo thuế phải được luân chuyển giữa cơ quan thuế và cơ quan tài nguyên môi trường.

 Để phù hợp với các khoản thu trên, Luật bổ sung vào Điều 32 (Thời hạn, địa điểm nộp hồ sơ khai thuế) và Điều 42 (Thời hạn nộp thuế) giao Chính phủ quy định cho phù hợp với thực tế quản lý các khoản thu liên quan đến đất đai và các quy định của pháp luật có liên quan.

- Ngoài ra để đồng bộ với những quy định của Luật Thanh tra mới ban hành có hiệu lực thi hành từ 1/7/2011, Luật có bổ sung quy định tại Điều 2 (Điều khoản thi hành) như sau: “Các nội dung về thanh tra thuế quy định tại Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 khác với quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra thì thực hiện theo quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra.”

 

PHẦN IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Để triển khai thực hiện có hiệu quả Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế, trong thời gian tới Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành liên quan thực hiện tốt một số nội dung sau:

            (1) Xây dựng, ban hành hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật (Nghị định, Thông tư), đảm bảo đến ngày 1/7/2013 hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đều có hiệu lực thi hành để thực hiện đồng bộ, thống nhất.

(2) Tổ chức tập huấn cho cán bộ thuế, cán bộ hải quan các cấp và tuyên truyền, phổ biến cho người nộp thuế các nội dung mới của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành.

            (3) Xây dựng chương trình ứng dụng tin học (hoặc nâng cấp các ứng dụng hiện hành) để tạo thuận lợi cho người nộp thuế trong việc kê khai nộp thuế và phục vụ cơ quan quản lý thuế trong việc quản lý hành thu.

            (4) Để đảm bảo thuận lợi trong việc tra cứu và áp dụng, Bộ Tài chính đưa toàn bộ nội dung của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành lên các trang điện tử (website) của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế và Tổng cục Hải quan.

 
Đề cương giới thiệu Luật Tiếp công dân
Đề cương giới thiệu việc làm
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen thưởng
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ngoại hối
Đề cương giới thiệu Luật phòng, chống thiên tai
Đề cương giới thiệu Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ số 07/2013/UBTVQH13
Giới thiệu Luật Hòa giải cơ sở
Đề cương giới thiệu Luật Khoa học và công nghệ năm 2013.
Đề cương giới thiệu Luật giáo dục quốc phòng và an ninh
Đề cương giới thiệu Luật Công đoàn năm 2012.
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế Thu nhập cá nhân số 26/2012/QH13
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư.
Đề cương giới thiệu Luật Hợp tác xã năm 2012
Đề cương giới thiệu Luật Giáo dục đại học
Đề cương giới thiệu Luật Dự trữ quốc gia.
Đề cương giới thiệu Luật Xuất bản
Đề cương giới thiệu Luật Thủ đô
Đề cương sửa đổi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng.
Đề cương giới thiệu Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Đề cương giới thiệu Luật Bảo hiểm tiền gửi.

  • Mùa nào thức nấy
    06/08/2024
    Hai bà hàng xóm ngồi tám chuyện: - Bước vô mùa nắng nóng là lại gặp mấy chuyện phiền toái, nào là đi hứng từng xô nước; rồi cúp điện, rồi bụi bay mù trời…
  • Bí quyết
    06/08/2024
    Hai bà hàng xóm nói chuyện với nhau: - Nhìn chị lúc nào cũng tươi vui. Bí quyết là gì thế?
  • Ý kiến
    06/08/2024
    Nhân viên mới trò chuyện với nhân viên cũ sau cuộc họp: - Sếp mình nói, là mai mốt chúng ta họp nội bộ cứ mạnh dạn đóng góp ý kiến, không có gì phải ngại hết. Tốt quá anh ha…
Số lượt truy cập: 1644634