BỘ TƯ PHÁP VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ----------------------------- | BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VỤ PHÁP CHẾ --------------------- |
ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Luật giáo dục đại học đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012. Ngày 02 tháng 7 năm 2012, Chủ tịch Nước đã ký Lệnh số 06/2012/L-CTN công bố Luật và Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2013. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động giáo dục, đổi mới quản lý giáo dục đại học, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Luật Giáo dục năm 1998 và sau đó là Luật Giáo dục năm 2005 đã tạo nền tảng pháp lý khá vững chắc cho sự nghiệp phát triển giáo dục, góp phần đưa sự nghiệp giáo dục tiến thêm những bước phát triển mới. Các quy định của Luật Giáo dục tạo điều kiện để ngành giáo dục mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, tăng cường hiệu quả, thực hiện công bằng xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân và phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, các quy định về giáo dục đại học ở trong Luật giáo dục mới chỉ quy định chung có tính nguyên tắc. Hệ thống các văn bản pháp luật về giáo dục hiện nay tuy ngày càng được hoàn thiện nhưng vẫn chưa đủ điều chỉnh các quan hệ về giáo dục đại học, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra.
Sau 25 năm đổi mới của đất nước và 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001 - 2010, giáo dục đại học nước ta đã từng bước phát triển về quy mô, đa dạng về loại hình trường và hình thức đào tạo; cung cấp nguồn lao động chủ yếu có trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ và tiến sĩ phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, giáo dục đại học cũng còn hạn chế: Phương pháp quản lý nhà nước đối với cơ sở giáo dục đại học chậm được thay đổi, chưa bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo của toàn hệ thống, chưa phát huy mạnh mẽ được sự sáng tạo của đội ngũ nhà giáo, các nhà quản lý và người học.
Luật giáo dục là luật khung, quy định một số vấn đề chung của giáo dục đại học. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về giáo dục đại học còn phân tán, hiệu lực pháp lý không cao. Nhiều vấn đề quan trọng của giáo dục đại học được quy định tản mạn tại các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành, Những vấn đề đó cần được điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao hơn.
Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với hệ thống giáo dục đại học trong khu vực và trên thế giới, việc ban hành Luật giáo dục đại học là cần thiết để điều chỉnh các hoạt động giáo dục đại học phù hợp với các cam kết quốc tế, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, quản lý tốt hơn hoạt động hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đại học.
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Cần đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt”.
Để thực hiện Nghị quyết của Đảng cần xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc cho sự đổi mới mạnh mẽ của giáo dục trong đó có giáo dục đại học.
Như vậy, việc ban hành Luật giáo dục đại học là cần thiết, nhằm tạo cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất cho sự phát triển của giáo dục đại học và thực hiện các mục tiêu giáo dục.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VÀ NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
Luật Giáo dục đại học được xây dựng trên cơ sở quán triệt và thể hiện đầy đủ các quan điểm chỉ đạo và các nguyên tắc cơ bản sau:
1. Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đổi mới quản lý nhà nước về giáo dục đại học và đổi mới quản lý của cơ sở giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục đại học, góp phần đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học.
3. Đẩy mạnh phân cấp quản lý giáo dục đại học và thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học phù hợp với năng lực quản lý, năng lực tổ chức hoạt động giáo dục và trách nhiệm xã hội.
4. Đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục đại học, huy động các nguồn đầu tư phát triển giáo dục đại học.
2. Luật giáo dục đại học phải phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật, góp phần hoàn thiện pháp luật về giáo dục trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
6. Luật giáo dục đại học được xây dựng dựa trên quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển, góp phần giải quyết những vấn đề bức xức mà thực tiễn giáo dục đại học đang đặt ra và thực hiện những mục tiêu chiến lược của giáo dục đại học và của hệ thống giáo dục quốc dân.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT GIÁO DỤC ĐẠI HỌC
1. Kết cấu và nội dung của Luật giáo dục đại học
Luật giáo dục đại học bao gồm 12 chương, 73 điều.
Kết cấu và nội dung cơ bản của Luật như sau:
Chương I. Những quy định chung, gồm 13 điều (từ Điều 1 đến Điều 13) quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; áp dụng Luật giáo dục đại học; giải thích từ ngữ; mục tiêu của giáo dục đại học; trình độ và hình thức đào tạo của giáo dục đại học; cơ sở giáo dục đại học; đại học quốc gia; phân tầng cơ sở giáo dục đại học; ngôn ngữ dùng trong cơ sở giáo dục đại học; quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; chính sách của Nhà nước về phát triển giáo dục đại học; tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, đoàn thể và tổ chức xã hội trong cơ sở giáo dục đại học.
Chương II. Tổ chức cơ sở giáo dục đại học, gồm 14 điều (từ Điều 14 đến Điều 27) quy định về cơ cấu tổ chức của cơ sở giáo dục đại học (cơ cấu tổ chức của trường cao đẳng, trường đại học, học viện; cơ cấu tổ chức của đại học; hội đồng trường; hội đồng quản trị; hội đồng đại học; hội đồng khoa học và đào tạo; hiệu trưởng; phân hiệu của cơ sở giáo dục đại học); thành lập, sáp nhập, chia, tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học; cho phép, đình chỉ hoạt động đào tạo (điều kiện thành lập hoặc cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học; điều kiện để được cho phép hoạt động đào tạo; sáp nhập, chia, tách cơ sở giáo dục đại học; đình chỉ hoạt động đào tạo của cơ sở giáo dục đại học; giải thể cơ sở giáo dục đại học; thủ tục và thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành lập, cho phép hoạt động đào tạo, đình chỉ hoạt động đào tạo; sáp nhập, chia tách, giải thể cơ sở giáo dục đại học) .
Chương III. Nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học, gồm 5 điều (từ Điều 28 đến Điều 32) quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của trường cao đẳng, trường đại học, học viện; nhiệm vụ và quyền hạn của đại học; nhiệm vụ và quyền hạn của viện nghiên cứu khoa học được phép đào tạo trình độ tiến sĩ; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài; quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học.
Chương IV. Hoạt động đào tạo, gồm 6 điều (từ Điều 33 đến Điều 38) quy định về mở ngành, chuyên ngành đào tạo; chỉ tiêu tuyển sinh và tổ chức tuyển sinh; chương trình, giáo trình giáo dục đại học; tổ chức và quản lý đào tạo; văn bằng giáo dục đại học.
Chương V. Hoạt động khoa học và công nghệ, gồm 4 điều (từ Điều 39 đến Điều 42) quy định về mục tiêu hoạt động khoa học và công nghệ; nội dung hoạt động khoa học và công nghệ; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học trong hoạt động khoa học và công nghệ; trách nhiệm của nhà nước về phát triển khoa học và công nghệ.
Chương VI. Hoạt động hợp tác quốc tế, gồm 6 điều (từ Điều 43 đến Điều 48) quy định về mục tiêu hoạt động hợp tác quốc tế; các hình thức hợp tác quốc tế của cơ sở giáo dục đại học; liên kết đào tạo với nước ngoài; văn phòng đại diện; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học trong hợp tác quốc tế; trách nhiệm của nhà nước về hợp tác quốc tế.
Chương VII. Bảo đảm chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học, gồm 5 điều (từ Điều 49 đến Điều 53) quy định về mục tiêu, nguyên tắc và đối tượng kiểm định chất lượng giáo dục đại học; trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học trong việc đảm bảo chất lượng giáo dục đại học; nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở giáo dục đại học về kiểm định chất lượng giáo dục đại học; tổ chức kiểm định chất lượng giáo dục; sử dụng kết quả kiểm định chất lượng giáo dục đại học.
Chương VIII. Giảng viên, gồm 5 điều (từ Điều 54 đến Điều 58) quy định về giảng viên; nhiệm vụ và quyền của giảng viên; chính sách đối với giảng viên; giảng viên thỉnh giảng và báo cáo viên; các hành vi giảng viên không được làm.
Chương IX. Người học, gồm 5 điều (từ Điều 59 đến Điều 63) quy định về người học; nhiệm vụ và quyền của người học; các hành vi người học không được làm; chính sách đối với người học; nghĩa vụ làm việc có thời hạn theo sự điều động của Nhà nước.
Chương X. Tài chính, tài sản của cơ sở giáo dục đại học, gồm 4 điều (từ Điều 64 đến Điều 67) quy định về nguồn tài chính của cơ sở giáo dục đại học; học phí, lệ phí tuyển sinh; quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học; quản lý và sử dụng tài sản của cơ sở giáo dục đại học.
Chương XI. Quản lý nhà nước về giáo dục đại học, gồm 4 điều (từ Điều 68 đến Điều 71) quy định về nội dung quản lý nhà nước về giáo dục đại học; cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục đại học; thanh tra, kiểm tra; xử lý vi phạm.
Chương XII. Điều khoản thi hành, gồm 2 điều (Điều 72 và Điều 73) quy định về hiệu lực thi hành và quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
2. Các điểm mới cơ bản của Luật giáo dục đại học
Luật giáo dục đại học nhằm mục tiêu thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng về giáo dục, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động giáo dục đại học để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuẩn bị nhân lực cho phát triển nền kinh tế tri thức.
Để đạt được mục tiêu trên, Luật giáo dục đại học quy định nhiều nội dung mới, trong đó có quy định về: phân tầng đại học, xã hội hóa giáo dục đại học, quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học và vấn đề kiểm soát chất lượng đào tạo.
a. Phân tầng cơ sở giáo dục đại học
Phân tầng giáo dục đại học đã được nhiều nước trên thế giới thực hiện.
Do mục tiêu, hiệu quả xây dựng và phát triển của các trường khác nhau, tạo nên hệ thống các trường đại học với “phổ” rất rộng về chất lượng, về năng lực quản trị, về sự lựa chọn của người học... Bên cạnh đó, các trường đại học có sứ mạng khác nhau nên trong quá trình phát triển các trường đại học sẽ được định vị ở những ‘tầng” khác nhau về chức năng, nhiệm vụ. Hơn thế nữa, với chính sách phát triển dựa vào đại học, hiện nay phân tầng các đại học còn được hoạch định bằng chính sách của quốc gia. Việc hoạch định nhằm mục đích tạo ra một tầng lớp các đại học xuất sắc, các đại học hàng đầu, có sứ mạng dẫn dắt và làm trụ cột cho giáo dục đại học (GDĐH) và biểu tượng của quốc gia giúp nâng cao năng lực cạnh tranh cho đất nước.
Các đại học trên thế giới có thể xác định sứ mạng chủ đạo theo một trong ba chức năng chính của GDĐH: giảng dạy, nghiên cứu và phục vụ cộng đồng. Chính vì vậy, ở mỗi quốc gia có thể hình thành hệ thống các trường đại học định hướng nghiên cứu, hệ thống các trường định hướng giảng dạy, đào tạo nghề và các trường đại học định hướng phổ biến kiến thức, phục vụ cộng đồng.
Ở Việt Nam, sự phân tầng đại học cũng đã diễn ra một cách tự nhiên cũng như theo hoạch định. Các trường đại học tổng hợp trước đây với định hướng nghiên cứu và các trường đại học đơn ngành với định hướng đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên, việc phân tầng đại học chưa được quy định trong Luật giáo dục.
Với quan điểm việc phân tầng đại học là nhằm làm cho việc đầu tư của nhà nước và xã hội có hiệu quả, các cơ sở giáo dục đại học lựa chọn và xác định chính xác nhu cầu của xã hội và mục tiêu đào tạo của nhà trường, người học dễ dàng lựa chon được cơ sở giáo dục đại học phù hợp để theo học. Luật giáo dục đại học đã quy định về phân tầng giáo dục đại học tại Điều 9 của Luật.
Thực hiện Luật giáo dục đại học, hệ thống các cơ sở giáo dục đại học của nước ta sẽ được phân tầng thành các cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu, các cơ sở giáo dục đại học định hướng ứng dụng và cơ sở giáo dục đại học định hướng thực hành. Mỗi một loại hình trường có mục tiêu đào tạo khác nhau và mức độ đầu tư cũng khác nhau. Sự phân tầng cơ sở giáo dục đại học nhằm tránh việc đầu tư dàn trải, đồng thời tạo điều kiện đào tạo đội ngũ nhân lực hài hòa theo nhu cầu của xã hội. Khoản 1 Điều 9 của Luật quy định:“ Cơ sở giáo dục đại học được phân tầng nhằm phục vụ công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển, nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học; thực hiện quản lý nhà nước”.
Để từng bước thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học, khoản 2 Điều 12 của Luật quy định: “Tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho giáo dục đại học; đầu tư có trọng điểm để hình thành một số cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao, theo định hướng nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, các ngành công nghệ cao và ngành kinh tế - xã hội then chốt đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới” .
b. Xã hội hóa giáo dục đại học
Xã hội hóa giáo dục là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đã được quy định trong Luật giáo dục và nay tiếp tục được cụ thể hóa trong Luật giáo dục đại học: “Thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học; ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học tư thục và cơ sở giáo dục đại học có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên cho phép thành lập cơ sở giáo dục đại học tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm các điều kiện thành lập theo quy định của pháp luật; cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đại học vì mục đích vụ lợi.” (khoản 3 Điều 12).
Để tránh tình trạng một cơ sở giáo dục đại học nào đó muốn lợi dụng danh nghĩa không vì lợi nhuận để mưu cầu lợi nhuận, Luật Giáo dục đại học quy định tại khoản 3 Điều 66 về quản lý tài chính của cơ sở giáo dục đại học:
“Phần tài chính chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục đại học tư thục được sử dụng như sau:
a) Dành ít nhất 25% để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học, cho các hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội. Phần này được miễn thuế;
b) Phần còn lại, nếu phân phối cho các nhà đầu tư và người lao động của cơ sở giáo dục đại học thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế.”
Mặt khác để đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà trường, Luật quy định giá trị tài sản tích lũy được trong quá trình hoạt động của cơ sở giáo dục đại học tư thục và giá trị của các tài sản được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng cho cơ sở giáo dục đại học tư thục là tài sản chung không chia, được quản lý theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển. Tài sản và đất đai Nhà nước giao cho cơ sở giáo dục đại học tư thục quản lý và tài sản cơ sở giáo dục đại học tư thục được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng phải được sử dụng đúng mục đích, không chuyển đổi mục đích sử dụng và không được chuyển thành sở hữu tư nhân dưới bất cứ hình thức nào;
Nhà nước và xã hội dựa vào việc sử dụng phần tài chính chênh lệch giữa thu chi và tài chính trong hoạt động của nhà trường để có chính sách phù hợp. Với quy định đó, một mặt, Nhà nước không cấm các cơ sở giáo dục đại học hoạt động vì lợi nhuận hợp lý, và mặt khác, có chính sách phù hợp, khuyến khích đối với cơ sở giáo dục đại học hoạt động không vì lợi nhuận.
c. Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học.
Tự chủ là một thuộc tính của cơ sở giáo dục đại học. Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học được xác định phù hợp với năng lực tự chủ và điều kiện đảm bảo thực hiện quyền tự chủ. Quyền tự chủ được thực hiện đồng thời với tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đại học. Trách nhiệm lớn nhất của cơ sở giáo dục đối với xã hội là bảo đảm chất lượng đào tạo. Việc thực hiện quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục đại học, đưa giáo dục Việt Nam nhanh chóng tiếp cận trình độ quốc tế. Tuy nhiên, Luật giáo dục chưa có nội dung quy định về quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học.
Quyền tự chủ của cơ sở giáo dục đại học là vấn đề được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các quy định của Luật giáo dục đại học.
Luật qui định cơ sở giáo dục đại học được tự chủ xác định và thực hiện chỉ tiêu tuyển sinh, xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục, đánh giá kết quả học tập và công nhận tốt nghiệp, in phôi văn bằng, cấp văn bằng cho người học. Quy định như vậy đã gắn chất lượng đào tạo với tên tuổi của nhà trường.
Hội đồng trường là thiết chế không thể thiếu để giao quyền tự chủ cho các trường. Điều 16 Luật giáo dục đại học bổ sung quy định cụ thể hơn về hội đồng trường đối với cơ sở giáo dục đại học công lập so với quy định tại Điều 52 của Luật giáo dục cho phù hợp hơn với thực tiễn giáo dục đại học Việt Nam.
d. Bảo đảm chất lượng đào tạo
Luật Giáo dục Đại học đã đưa vào những điều khoản giám sát chặt chẽ chất lượng đào tạo trong suốt quá trình sinh viên học tập tại trường. Thay vì quy định chương trình khung như trước đây, Luật giáo dục đại học quy định về chuẩn tối thiểu kiến thức, kỹ năng tại khoản 3 Điều 36 như sau:“ Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của giáo dục đại học; quy trình xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ…”.
Để khuyến khích các cơ sở giáo dục đại học huy động ngày càng nhiều các nguồn lực đầu tư cho các điều kiện bảo đảm chất lượng, cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo hài hòa cơ cấu nhân lực, nâng cao tính cạnh tranh của sinh viên Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, khoản 6 Điều 65 Luật giáo dục đại học quy định: “Cơ sở giáo dục đại học thực hiện chương trình đào tạo chất lượng cao được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo”.
Song song với việc thiết lập các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, Luật có những quy định về khung pháp lý của việc tổ chức, hoạt động kiểm định chất lượng giáo dục. Kiểm định chất lượng là bắt buộc đối với các cơ sở giáo dục đại học để thực hiện quyền tự chủ. Trên cơ sở kết quả kiểm định chất lượng, các cơ sở giáo dục đại học sẽ được xếp hạng theo những tiêu chí được các cấp có thẩm quyền qui định.
Ngoài những nội dung mới cơ bản trên, Luật giáo dục đại học còn có nhiều điều, khoản mới quy định về chức danh của giảng viên trong cơ sở giáo dục đại học (gồm trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư); quy định trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học; qui định cấp có thẩm quyền ban hành chuẩn quốc gia của cơ sở giáo dục đại học; quy định về công tác quản lý nhà nước về giáo dục đại học và công tác thanh tra, kiểm tra...
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Sau khi Luật giáo dục đại học được Quốc hội thông qua, việc soạn thảo các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật là nhiệm vụ không kém phần quan trọng để góp phần nhanh chóng đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống. Theo dự kiến của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì để quy định chi tiết Luật giáo dục đại học sẽ có 15 văn bản, bao gồm: 06 Nghị định của Chính phủ, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; 01 Thông tư liên tịch và 05Thông tư của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cùng với soạn thảo các văn bản trong Danh mục văn bản hướng dẫn thi hành Luật giáo dục đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang khẩn trương rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản về giáo dục đại học đã có, các văn bản đang tiến hành soạn thảo để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của Luật giáo dục đại học.
Kế hoạch tuyên truyền phổ biến Luật giáo dục đại học nêu rõ các yêu cầu về mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức và biện pháp tuyên truyền Luật, theo đó, thủ trưởng các cơ quan quản lý giáo dục, các cơ sở giáo dục căn cứ vào Kế hoạch này phối hợp với các đơn vị liên quan để xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức triển khai việc tuyên truyền, phổ biến Luật giáo dục đại học cho các đối tượng thuộc quyền quản lý nhằm giới thiệu các quy định của Luật đến các cơ quan, nhà trường, cán bộ quản lý, nhà giáo, người học và nhân dân. Đây là công việc quan trọng, thiết thực nhằm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, nâng cao ý thức, trách nhiệm của từng người dân cũng như các cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của Luật, tham gia tích cực và có hiệu quả vào các hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục.