28/12/2012 09:43        

Đề cương giới thiệu Luật Bảo hiểm tiền gửi.

BỘ TƯ PHÁP

VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

----------------------------

 

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

VỤ PHÁP CHẾ

-------------------------

GIỚI THIỆU

LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI

-------------------------

         

Ngày 18/6/2012, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 3 thông qua, ghi nhận một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về hoạt động của bảo hiểm tiền gửi. Luật Bảo hiểm tiền gửi sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013.

 

PHẦN I: SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI

Trong xu thế phát triển của thị trường tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, việc tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm đảm bảo một hệ thống pháp luật đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho các định chế tài chính hoạt động hiệu quả là một yêu cầu khách quan. Cơ sở pháp lý đầu tiên cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam và sự ra đời tổ chức bảo hiểm tiền gửi được quy định tại Khoản 1 Điều 17 Luật Các tổ chức tín dụng năm 1997: “Tổ chức tín dụng có trách nhiệm tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi; mức bảo toàn hoặc bảo hiểm do Chính phủ quy định”.

Để triển khai qui định này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 về bảo hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 89/1999/NĐ-CP. Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thực hiện Nghị định số 89/1999/NĐ-CP và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP.

Sau 12 năm hoạt động, khung pháp lý cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi đã hình thành với những ưu điểm và hạn chế sau:

1. Những ưu điểm và kết quả đạt được

Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi đã qui định tương đối đầy đủ các nội dung cơ bản cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam. Các qui định này có nhiều điểm tiến bộ, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thông lệ quốc tế, cụ thể:

a) Quy định về mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi

Pháp luật hiện hành đã có những quy định rõ ràng về mục tiêu của bảo hiểm tiền gửi: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của các tổ chức tín dụng và bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng[1]. Đây là những mục tiêu khái quát, tiến bộ và phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam và thông lệ quốc tế.

b) Quy định về bảo hiểm tiền gửi bắt buộc

Pháp luật Việt Nam về bảo hiểm tiền gửi đã có những quy định tiến bộ về việc tham gia bảo hiểm tiền gửi là bắt buộc[2], tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền huỷ bỏ tư cách thành viên của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi[3]. Việc xác định cơ chế bảo hiểm tiền gửi bắt buộc ngay từ khi thiết lập hệ thống bảo hiểm tiền gửi là một thuận lợi cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi tại Việt Nam.

c) Quy định về việc áp dụng cơ chế bảo hiểm tiền gửi có hạn mức

Việt Nam đã áp dụng cơ chế bảo hiểm tiền gửi có hạn mức ngay từ khi thiết lập hệ thống bảo hiểm tiền gửi. Ban đầu, hạn mức trả tiền bảo hiểm được giới hạn ở mức 30 triệu VNĐ, sau đó được tăng lên 50 triệu VNĐ[4]. Việc áp dụng cơ chế bảo hiểm tiền gửi có hạn mức đã giúp giảm thiểu rủi ro đạo đức và phù hợp với thông lệ quốc tế.

d) Quy định về trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền

Pháp luật bảo hiểm tiền gửi qui định việc trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền phải được thực hiện trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày Toà án mở thủ tục phá sản hoặc được cơ quan có thẩm quyền xác định tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn[5]. Bên cạnh đó, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam được quyền tiếp cận thông tin về người gửi tiền trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày có văn bản của cơ quan có thẩm quyền hoặc của tòa án do tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi cung cấp, bao gồm danh sách và số tiền gửi của người gửi tiền[6]; được xác minh và kiểm tra sổ sách trong thời hạn 5 ngày[7] và có thông báo về việc trả tiền bảo hiểm trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc kiểm tra. Người gửi tiền được tiếp nhận thông tin về việc trả tiền bảo hiểm: thời gian, địa điểm và phương thức tiến hành trả tiền bảo hiểm[8].

đ) Quy định về thu hồi tiền bảo hiểm sau chi trả

Pháp luật bảo hiểm tiền gửi quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi trở thành chủ nợ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi với số tiền bảo hiểm đã chi trả; được phân chia giá trị tài sản theo thứ tự thanh toán như đối với người gửi tiền trong trường hợp tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn hoặc bị phá sản theo quy định của pháp luật về giải thể, phá sản; được quyền tham gia vào quá trình quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật[9]. Số tiền thu hồi được từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị buộc giải thể do không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn hoặc bị phá sản sẽ được bổ sung vào nguồn vốn hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi[10].

2. Những tồn tại và hạn chế

Bên cạnh những kết quả nêu trên, pháp luật hiện hành về bảo hiểm tiền gửi vẫn còn những tồn tại hạn chế, bất cập, nhiều điểm mâu thuẫn, chưa phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành về ngân hàng, đặc biệt là với những qui định tại các văn bản pháp luật được ban hành trong thời gian gần đây, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bảo hiểm tiền gửi, cụ thể:

a) Về quản lý nhà nước đối với bảo hiểm tiền gửi

Theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, Ngân hàng Nhà nước được xác định là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi[11].

Tuy nhiên, hệ thống pháp luật hiện hành về bảo hiểm tiền gửi chưa xác định rõ cơ quan nào chịu trách nhiệm trước Chính phủ về hoạt động bảo hiểm tiền gửi, cũng như thực hiện thanh tra, giám sát và kiểm tra hoạt động bảo hiểm tiền gửi, mà mới chỉ dừng lại ở quy định chung chung là hoạt động bảo hiểm tiền gửi chịu sự quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khác trong các lĩnh vực thuộc chức năng, thẩm quyền mà pháp luật đã quy định[12].

b) Chức năng thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Theo quy định ngoài chức năng thu phí bảo hiểm tiền gửi[13], chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền[14], tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị phá sản[15], tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn có chức năng theo dõi, giám sát và kiểm tra việc chấp hành các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và các quy định về an toàn trong hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi[16].

Tuy nhiên, việc trao chức năng thanh tra, giám sát an toàn hoạt động ngân hàng cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong giai đoạn hiện nay là không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam, gây chồng chéo, mâu thuẫn với hệ thống pháp luật Việt Nam mà cụ thể là Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 sửa đổi năm 2004 trước đây và Luật Ngân hàng Nhà nước hiện hành. Bởi lẽ, theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 2010, chức năng thanh tra, giám sát ngân hàng được trao cho Ngân hàng Nhà nước. Việc có hai cơ quan cùng thực hiện chức năng thanh tra sẽ gây tốn kém chi phí xã hội, tạo gánh nặng cho các tổ chức tín dụng khi phải chịu sự thanh tra của hai cơ quan khác nhau, gây khó khăn cho tổ chức tín dụng trong trường hợp các kết luận thanh tra không thống nhất.

c) Hoạt động đầu tư của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Pháp luật quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi có quyền mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng nhà nước; gửi tiền tại Kho bạc nhà nước, Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng nhà nước nhằm bảo đảm an toàn vốn, bảo tồn vốn, bù đắp chi phí[17].

Tuy nhiên, quy định này vẫn còn có điểm chưa hợp lý, bởi lẽ việc cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi mua trái phiếu, tín phiếu của tổ chức tín dụng nhà nước hoặc gửi tiền tại tổ chức tín dụng nhà nước sẽ dẫn đến việc tổ chức bảo hiểm trở thành người gửi tiền không được bảo hiểm đối với những khoản tiền gửi của mình tại tổ chức tín dụng nhà nước. Điều này có thể gây nên những tác động rất xấu đến hiệu quả của hệ thống bảo hiểm tiền gửi, cụ thể là trong trường hợp tổ chức tín dụng nhà nước đổ vỡ, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có khả năng không thu hồi được khoản tiền gửi tại tổ chức tín dụng nhà nước đó, dẫn đến việc quỹ bảo hiểm tiền gửi bị hao tổn và liên quan đến các rủi ro đạo đức, tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ có những động thái trì hoãn hoặc gây khó khăn trong khi thực hiện các chức năng của mình về bảo hiểm tiền gửi như giám sát từ xa, thu phí bảo hiểm tiền gửi, chi trả tiền bảo hiểm…

d) Chủ thể được bảo hiểm tiền gửi

Theo quy định của pháp luật, chủ thể bảo hiểm tiền gửi bao gồm cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh[18]. Việc mở rộng chủ thể được bảo hiểm tiền gửi đối với hộ gia đình, tổ hợp tác, công ty hợp danh đã nảy sinh một số bất cập và không thống nhất với các quy định khác của hệ thống pháp luật ngân hàng.

Nghị định số 109/2005/NĐ-CP mở rộng chủ thể được bảo hiểm tiền gửi đối với một số loại hình doanh nghiệp là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh tức là đối với các chủ thể không có tư cách pháp nhân. Quy định trên là một sự phân biệt đối xử đối với các loại hình doanh nghiệp khác như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần trong bối cảnh Luật doanh nghiệp năm 2005 đã khẳng định công ty hợp danh lại là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân[19].

e) Phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm

Pháp luật hiện hành về bảo hiểm tiền gửi quy định theo hướng xác định một mức cụ thể về phí, hạn mức trả tiền bảo hiểm và trao quyền điều chỉnh mức này cho Thủ tướng Chính phủ. Quy định này chưa phù hợp với hệ thống pháp luật Việt Nam hiện hành và chưa đảm bảo tính linh hoạt, cụ thể như sau:

Quy định này gây ra sự mâu thuẫn về thẩm quyền giữa Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Bởi lẽ, một quy định cụ thể trong nghị định sẽ có thể bị sửa đổi bởi một văn bản quy phạm pháp luật do Thủ tướng Chính phủ ban hành. Điều này không phù hợp với quy định tại khoản 1 điều 9 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 theo đó, văn bản quy phạm pháp luật chỉ được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ hoặc bãi bỏ bằng văn bản quy phạm pháp luật của chính cơ quan nhà nước đã ban hành văn bản đó.

Trong điều kiện kinh tế - xã hội và mức thu nhập của người dân thay đổi nhanh chóng, kéo theo sự bất ổn định của chỉ số phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm thì việc quy định một khung cứng cho phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm trong văn bản luật sẽ bó chặt tính linh hoạt của các chỉ số này dẫn đến tình trạng quy định trong luật không theo kịp xu hướng phát triển của nền kinh tế và trở nên lỗi thời, trong khi việc sửa đổi một văn bản luật không những cần nhiều thời gian, tuân thủ nhiều quy trình chặt chẽ mà còn gây lãng phí cho ngân sách nhà nước.

3. Yêu cầu bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật

Từ thực trạng thời gian qua, việc ban hành Luật Bảo hiểm tiền gửi sẽ góp phần hoàn thiện hơn các quy định về nghiệp vụ bảo hiểm tiền gửi; nâng cao giá trị pháp lý của các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi và bảo đảm cho các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi được điều chỉnh bằng văn bản luật. Luật Bảo hiểm tiền gửi xác định rõ vị trí của tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam nhằm tránh chồng chéo nhiệm vụ với các cơ quan khác; xác định rõ cơ quan quản lý nhà nước và nội dung quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi để hoạt động bảo hiểm tiền gửi đạt hiệu quả cao hơn.

Bên cạnh đó, trong thời gian qua, nhiều Luật có liên quan đến hoạt động tiền tệ, ngân hàng, bảo hiểm tiền gửi đã được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới như Luật Ngân hàng Nhà nước 2010, Luật Các tổ chức tín dụng 2010, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật Bảo vệ người tiêu dùng 2010…. Việc xây dựng, ban hành Luật Bảo hiểm tiền gửi là một yêu cầu khách quan nhằm đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Như vậy, việc ban hành Luật Bảo hiểm tiền gửi là cần thiết để khắc phục những bất cập của quy định pháp luật bảo hiểm tiền gửi hiện hành và nâng cao giá trị pháp lý của pháp luật bảo hiểm tiền gửi, giúp cho hoạt động bảo hiểm tiền gửi hoạt động hiệu quả hơn, nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

 

PHẦN II: QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI

Luật Bảo hiểm tiền gửi được xây dựng trên cơ sở quán triệt đầy đủ các quan điểm chỉ đạo sau:

1. Thể chế hóa được quan điểm chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước, thể hiện được tính đặc thù của hệ thống ngân hàng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị của Việt nam đã được qui định trong Hiến pháp năm 1992.

2. Phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội ở nước ta, đặc biệt là các điều kiện về sự phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường vốn, sự phát triển của hệ thống ngân hàng, mức độ hiểu biết, thói quen tiết kiệm của người dân.

3. Kế thừa những nội dung phù hợp đã được trải nghiệm qua 10 năm thực hiện pháp luật bảo hiểm tiền gửi, bảo đảm tính kế thừa trong quản lý, đồng thời khắc phục được những thiếu sót, bất cập của pháp luật hiện hành về bảo hiểm tiền gửi.

4. Tham khảo, học tập kinh nghiệm xây dựng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của các nước, cũng như tham khảo các hướng dẫn phát triển hệ thống bảo hiểm tiền gửi hiệu quả của các tổ chức quốc tế, bảo đảm Luật Bảo hiểm tiền gửi của Việt Nam có sự tương thích nhất định với các chuẩn mực chung của quốc tế.

5. Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, hiệu quả của hệ thống pháp luật ngân hàng, tạo điều kiện tăng cường sự phối hợp, hoạt động hiệu quả của các cấu phần trong mạng lưới an toàn tài chính quốc gia.

 

PHẦN 3: BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI

I. BỐ CỤC CỦA LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI

Luật Bảo hiểm tiền gửi gồm 7 chương và 39 điều, cụ thể như sau:

1. Chương I: Những quy định chung

Chương này bao gồm 10 điều, từ Điều 1 đến Điều 10, quy định những nội dung cơ bản về: Phạm vi điều chỉnh; Đối tượng áp dụng; Mục đích của bảo hiểm tiền gửi; Giải thích từ ngữ; Nguyên tắc bảo hiểm tiền gửi; Tham gia bảo hiểm tiền gửi; Chính sách của nhà nước về bảo hiểm tiền gửi; Cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi; Trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng Nhà nước; và các hành vi bị cấm.

2. Chương II: Quyền, nghĩa vụ của người được bảo hiểm tiền gửi, tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Chương này gồm 3 điều, từ Điều 11 đến Điều 13, quy định những nội dung cơ bản về: Quyền và nghĩa vụ của người được bảo hiểm tiền gửi; Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi; Quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.

3. Chương III: Hoạt động bảo hiểm tiền gửi

Chương này gồm 4 Mục, 15 điều, từ Điều 14 đến Điều 28, quy định về các nội dung cơ bản liên quan đến hoạt động bảo hiểm tiền gửi như chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi, tiền gửi được bảo hiểm, phí bảo hiểm tiền gửi và trả tiền bảo hiểm.

- Mục 1: Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi gồm có 4 điều, từ Điều 14 đến Điều 17, quy định các nội dung cơ bản về: Cấp Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi; Niêm yết Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi; Thu hồi Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi; Cấp lại Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi.

- Mục 2: Tiền gửi được bảo hiểm gồm có 2 điều, Điều 18 và Điều 19, quy định về: Tiền gửi được bảo hiểm và tiền gửi không được bảo hiểm.

- Mục 3: Phí bảo hiểm tiền gửi gồm 2 điều, Điều 20 và Điều 21, quy định về phí bảo hiểm tiền gửi và phí nộp thiếu, nộp chậm.

              - Mục 4: Trả tiền bảo hiểm gồm 7 điều, từ Điều 22 đến Điều 28, quy định về Thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm; Thời hạn trả tiền bảo hiểm; Hạn mức trả tiền bảo hiểm; Số tiền bảo hiểm được trả; Thủ tục trả tiền bảo hiểm; Xử lý số tiền gửi vượt hạn mức trả tiền bảo hiểm; Thu hồi số tiền bảo hiểm phải trả từ tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.

4. Chương IV: Tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Chương này gồm 4 điều, từ Điều 29 đến Điều 32, quy định các nội dung cơ bản về: Tổ chức bảo hiểm tiền gửi; Nguồn vốn hoạt động; Hoạt động đầu tư; Chế độ tài chính, hạch toán kế toán và kiểm toán.

5. Chương V: Hoạt động thông tin, báo cáo

Chương này gồm 2 điều, Điều 33 và Điều 34, quy định cụ thể về Trách nhiệm báo cáo và công bố thông tin của tổ chức bảo hiểm tiền gửi; Cung cấp thông tin của Ngân hàng Nhà nước.

6. Chương VI: Thanh tra, khiếu nại về bảo hiểm tiền gửi

Chương này gồm 2 điều, từ Điều 35 đến Điều 36, quy định các nội dung  Thanh tra về bảo hiểm tiền gửi và Khiếu nại về bảo hiểm tiền gửi.

7. Chương VII: Điều khoản thi hành

Chương này gồm 3 điều, từ điều 37 đến điều 39, quy định cụ thể về: Điều khoản chuyển tiếp; Hiệu lực thi hành và Hướng dẫn thi hành.

II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI

1. Quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi

Luật Bảo hiểm tiền gửi đã đạt một bước tiến trong việc xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi đó chính là Ngân hàng Nhà nước (Khoản 2 Điều 8). Đồng thời, Luật xác định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi của Ngân hàng Nhà nước (Điều 9).

Hơn nữa, nhằm khắc phục thiếu sót của hệ thống pháp luật về bảo hiểm tiền gửi trong việc xác định trách nhiệm thực hiện thanh tra về bảo hiểm tiền gửi và trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo hiểm tiền gửi đã được trao cho Ngân hàng Nhà nước, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định Chương VI: Thanh tra, khiếu nại về bảo hiểm tiền gửi, theo đó  khẳng định “Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng thanh tra về bảo hiểm tiền gửi” ( Khoản 1 Điều 35).

2. Mô hình hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Luật Bảo hiểm tiền gửi trao cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi chức năng giám sát từ xa trên cơ sở các thông tin nhận được từ Ngân hàng Nhà nước và tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm phát hiện và báo cáo Ngân hàng Nhà nước xử lý kịp thời những rủi ro gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng, những vi phạm quy định về an toàn hoạt động ngân hàng; tổ chức bảo hiểm tiền gửi được tham gia vào quá trình kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước hay tham gia quản lý, thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ. Quy định này đảm bảo cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi thực hiện tốt chức năng bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và xác định rõ giới hạn của tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc bảo đảm an toàn hệ thống tài chính tiền tệ quốc gia.

3. Chủ thể được bảo hiểm tiền gửi

Để khắc phục những hạn chế của quy định pháp luật về chủ thể được bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định chỉ bảo hiểm tiền gửi của người gửi tiền là cá nhân mà không bảo hiểm cho tiền gửi của hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Hơn nữa, việc bảo hiểm tiền gửi cho cả tổ chức không phù hợp với mục tiêu bảo vệ những người gửi tiền nhỏ lẻ, thiếu thông tin. Mặt khác, tiền gửi của các tổ chức mang tính luân chuyển cao, chủ yếu nhằm mục đích thanh toán chứ không nhằm mục đích gửi tiền tiết kiệm. Vì vậy, việc quy định bảo hiểm cho tiền gửi của tổ chức là không phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do đó, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định chủ thể được bảo hiểm tiền gửi là cá nhân cụ thể : Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi dưới hình thức tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức tiền gửi khác theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, trừ các loại tiền gửi quy định tại Điều 19 của Luật Bảo hiểm tiền gửi

4. Mô hình tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Kế thừa các quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện chính sách bảo hiểm tiền gửi, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lạnh mạnh của hoạt động ngân hàng (Khoản 4 Điều 4) và tổ chức bảo hiểm tiền gửi do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ . Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là pháp nhân, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí.(Điều 29)

5. Chế độ thông tin, báo cáo về bảo hiểm tiền gửi

Để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải có được những thông tin cần thiết về các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Vì vậy, Luật Bảo hiểm tiền gửi đã quy định quy định cụ thể tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm báo cáo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam các thông tin sau: (i) Thông tin về việc chấp hành quy định pháp luật về bảo hiểm tiền gửi của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi định kỳ 06 tháng hoặc đột xuất theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; (ii) Thông tin về việc trả tiền bảo hiểm đối với người được bảo hiểm tiền gửi định kỳ 06 tháng hoặc đột xuất theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; (iii) Kết quả thực hiện nhiệm vụ quy định tại khoản 10 Điều 13 của Luật này theo định kỳ hằng quý hoặc đột xuất theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; (iv) Báo cáo tài chính hằng năm đã được kiểm toán và báo cáo hoạt động hằng năm; (v) Các thông tin khác về hoạt động bảo hiểm tiền gửi theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Đồng thời tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm công bố thông tin về việc thu hồi Chứng nhận tham gia bảo hiểm tiền gửi và phương án trả tiền bảo hiểm cho người được bảo hiểm tiền gửi.

Và Luật cũng quy định việc cung cấp thông tin của Ngân hàng nhà nước để tổ chức bảo hiểm tiền gửi được phép tiếp cận dữ liệu thông tin của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có trách nhiệm để tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiếp cận dữ liệu thông tin về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ.

6. Hoạt động đầu tư của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

Nhằm tránh rủi ro hao tổn quỹ bảo hiểm tiền gửi, gây tác động xấu đến hiệu quả của hệ thống bảo hiểm tiền gửi, Luật Bảo hiểm tiền gửi chỉ cho phép “Tổ chức bảo hiểm tiền gửi được sử dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để mua trái phiếu Chính phủ, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và gửi tiền tại Ngân hàng Nhà nước” (Điều 31) mà không cho phép tổ chức bảo hiểm tiền gửi được mở tài khoản và gửi tiền tại tổ chức tín dụng nhà nước như quy định của pháp luật trước đây về bảo hiểm tiền gửi.

7. Phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm

Nhằm đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm trong điều kiện nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ nhanh, Luật không quy định một mức phí hay một khung phí cứng mà trao thẩm quyền cho Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước. Căn cứ vào khung phí bảo hiểm tiền gửi, Ngân hàng Nhà nước quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này. Phí bảo hiểm tiền gửi được tính trên cơ sở số dư tiền gửi bình quân của tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Phí bảo hiểm tiền gửi được tính và nộp định kỳ hàng quý trong năm tài chính. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm tiền gửi cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi chậm nhất vào ngày 20 tháng đầu tiên của quý kế tiếp. Phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (Điều 20).

8. Thời điểm tổ chức bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền

Theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng 2010, tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền nhận tiền gửi của cá nhân, vì vậy hai loại hình này phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc.

Việc xác định thời điểm trả tiền bảo hiểm phù hợp thể hiện cam kết của Nhà nước đối với người dân trong việc đảm bảo chi trả ngay lập tức khoản tiền bảo hiểm trong hạn mức bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đổ vỡ nhằm củng cố niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng, hạn chế hiện tượng rút tiền hàng loạt tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, qua đó giảm thiểu tình trạng mất khả năng thanh toán của ngân hàng, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Như vậy, để đảm bảo đạt được mục tiêu của Luật Bảo hiểm tiền gửi và phù hợp với quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng 2010, thời điểm tổ chức bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm được quy định cụ thể tại Điều 22: “Nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm phát sinh kể từ thời điểm Ngân hàng Nhà nước có văn bản chấm dứt kiểm soát đặc biệt hoặc văn bản chấm dứt áp dụng hoặc văn bản không áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng thanh toán mà tổ chức tín dụng là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi vẫn lâm vào tình trạng phá sản hoặc Ngân hàng Nhà nước có văn bản xác định chi nhánh ngân hàng nước ngoài là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền”.

 

PHẦN IV: CÔNG TÁC TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT BẢO HIỂM TIỀN GỬI

Để thực hiện Luật BHTG hiệu quả, Ngân hàng Nhà nước đang và sẽ triển khai nhiều công việc từ nay cho đến ngày Luật Bảo hiểm tiền gửi có hiệu lực thi hành( 01/01/2013), bao gồm các nội dung như sau:

1. Tuyên truyền, phổ biến Luật Bảo hiểm tiền gửi như:

 (i) tổ chức các hội nghị tuyên truyền, phổ biến Luật ở 3 miền Bắc, Trung, Nam… với thành phần là các cán bộ của hệ thống Ngân hàng Nhà nước, của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, quỹ tín dụng nhân dân và tổ chức tài chính vi mô;

(ii) tổ chức các buổi tọa đàm trao đổi chuyên môn về nghiệp vụ bảo hiểm trên cơ sở các qui định của Luật;

(iii) Đăng tải các bài giới thiệu, hỏi đáp nội dung Luật Bảo hiểm tiền gửi phù hợp với từng loại đối tượng dưới hình thức các ấn phẩm và trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài phát thanh, truyền hình, website…

(iv) tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về nội dung của Luật bảo hiểm tiền gửi tạo sân chơi giao lưu giữa các đơn vị trong hệ thống bảo hiểm tiền gửi và các tổ chức tín dụng . 

2. Xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm tiền gửi

Nguyên tắc triển khai Luật Bảo hiểm tiền gửi là những quy định của Luật đã rõ ràng, cụ thể cần nhanh chóng triển khai, áp dụng ngay khi Luật có hiệu lực thi hành. Những quy định cần được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thực hiện cần ban hành văn bản hướng dẫn kịp thời bảo đảm khi Luật có hiệu lực có thể thực hiện được ngay.

Các nhiệm vụ liên quan đến xây dựng văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm tiền gửi bao gồm rà soát để lên danh mục các văn bản cần xây dựng để hướng dẫn Luật, dự kiến thời gian trình ban hành văn bản hướng dẫn và giao cơ quan, đơn vị chủ trì xây dựng văn bản hướng dẫn. Các đơn vị chủ trì xây dựng văn bản hướng dẫn có trách nhiệm phối hợp với các đơn vị liên quan triển khai việc xây dựng các văn bản hướng dẫn Luật theo đúng trình tự, thủ tục ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm chất lượng và tiến độ xây dựng phù hợp với thời điểm có hiệu lực của Luật Bảo hiểm tiền gửi từ ngày 01/01/2013.

Trên cơ sở rà soát các nội dung của Luật, dự kiến danh mục văn bản hướng dẫn Luật Bảo hiểm tiền gửi gồm 01 Nghị định của Chính phủ, 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 01 Thông tư liên tịch của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước và 01 Thông tư của Ngân hàng Nhà nước để hướng dẫn các điều khoản cụ thể của Luật. Cụ thể:

(i) Khoản 2 Điều 34 Luật BHTG quy định trách nhiệm của Ngân hàng Nhà nước thực hiện theo quy định của Chính phủ: Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm để tổ chức bảo hiểm tiền gửi tiếp cận dữ liệu thông tin về tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định của Chính phủ.Dự kiến Chính phủ sẽ ban hành Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Bảo hiểm tiền gửi.

(ii). Khoản 1 Điều 20 Luật BHTG quy định: “Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước”. Khoản 2 Điều 24 Luật BHTG quy định: Thủ tướng Chính phủ quy định hạn mức trả tiền bảo hiểm theo đề nghị của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ”. Dự kiến Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định khung phí bảo hiểm tiền gửi và hạn mức trả tiền bảo hiểm.

(iii) Khoản 1 Điều 29 Luật BHTG quy định: Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính do Thủ tướng Chính phủ thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ.” Dự kiến Thủ tướng Chính phủ sẽ ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.

(iv) Khoản 2 Điều 20 Luật BHTG quy định: “Căn cứ vào khung phí bảo hiểm tiền gửi, Ngân hàng Nhà nước quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi cụ thể đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi trên cơ sở kết quả đánh giá và phân loại các tổ chức này.” Dự kiến Thống đốc NHNN sẽ ban hành  Thông tư của Ngân hàng Nhà nước quy định mức phí bảo hiểm tiền gửi.

(v). Khoản 2 Điều 32 Luật BHTG quy định: “Chế độ tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi do Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ngân hàng Nhà nước quy định”. Để triển khai qui định này dự kiến Bộ Tài chính (phối hợp với Ngân hàng Nhà nước) sẽ ban hành Thông tư quy định về chế độ tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.

Với việc tích cực triển khai các công việc nói trên, Luật Bảo hiểm tiền gửi sẽ được thực hiện một cách có hiệu quả, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng./.



[1]     Điều 1 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 109/2005/NĐ-CP (Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005)

[2]     Khoản 1 Điều 2 Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005

[3]     Điểm 10 Thông tư 03/2006/TT-NHNN

[4]     Điều 4 Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005

[5]     Điều 16 Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005

[6]     Điểm 28.2 Thông tư 03/2006/TT-NHNN

[7]     Điểm 28.3 Thông tư 03/2006/TT-NHNN

[8]     Điểm 28.4 Thông tư 03/2006/TT-NHNN

[9]     Điều 20 Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005

[10]    Điều 21 Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005

[11]    Khoản 14 Điều 4 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010

[12]    Điều 26, 27, 28 Điều lệ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

[13]    Mục 1 Chương II Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005; và Khoản 1 Điều 5 Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg

[14]    Mục 4 Chương II Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005; và Khoản 2 Điều 5 Quyết định 218/1999/QĐ-TTg

[15]    Mục 5 Chương II Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005; và Khoản 5 Điều 5 Quyết định 218/1999/QĐ-TTg

[16]    Khoản 3 Điều 5 Quyết định 218/1999/QĐ-TTg

[17]    Điều 19 Nghị định 89/1999/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung năm 2005

[18]    Điều 3 Nghị định 89/1999/NĐ-CP đã được sửa đổi, bổ sung năm 2005

[19]    Khoản 2 Điều 130 Luật Doanh nghiệp năm 2005

 
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế Thu nhập cá nhân số 26/2012/QH13
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư.
Đề cương giới thiệu Luật Hợp tác xã năm 2012
Đề cương giới thiệu Luật Giáo dục đại học
Đề cương giới thiệu Luật Dự trữ quốc gia.
Đề cương giới thiệu Luật Xuất bản
Đề cương giới thiệu Luật Thủ đô
Đề cương sửa đổi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng.
Đề cương giới thiệu Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Đề cương giới thiệu Luật Giá.
Đề cương giới thiệu Luật Giám định tư pháp.
Đề cương giới thiệu Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.
Đề cương giới thiệu Luật Phòng, chống rửa tiền.
Đề cương giới thiệu Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá.
Đề cương giới thiệu Luật Quảng cáo.
Đề cương giới thiệu Luật Tài nguyên nước.
Đề cương giới thiệu Bộ luật lao động.
Đề cương giới thiệu Luật Biển Việt Nam.
ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU NGHỊ ĐỊNH SỐ 66/2008/NĐ-CP NGÀY 28/5/2008 CỦA CHÍNH PHỦ VỀ HỖ TRỢ PHÁP LÝ CHO DOANH NGHIỆP

  • Tiếc
    16/04/2024
    Một ông nổi tiếng keo kiệt phải cấp cứu vì ăn nhầm nấm độc. Sau khi được bác sỹ rửa ruột, tiêm thuốc, ông ta hồi tỉnh lại. Trước khi cho xuất viện, báo sỹ hỏi:
  • Giải đáp
    16/04/2024
    Bà vợ hỏi ông chồng: - Tại sao người ta chọn Giờ Trái đất vào ngày thứ bảy cuối cùng của tháng 3 hằng năm ông nhỉ?
  • Món ngon
    16/04/2024
    Hai bợp nhậu ngồi tám chuyện: - Đố ông, trong các món mồi nhậu, con gì ngon nhất?
Số lượt truy cập: 514302