BỘ TƯ PHÁP
VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT ------------------- | VỤ BỔ TRỢ TƯ PHÁP ------------------------- |
ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
LUẬT GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
Ngày 20 tháng 6 năm 2012, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Giám định tư pháp. Ngày 02 tháng 7 năm 2012, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố Luật Giám định tư pháp và luật sẽ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2013.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
Giám định tư pháp là một loại hoạt động bổ trợ tư pháp, là công cụ quan trọng, phục vụ đắc lực cho hoạt động điều tra, truy tố và xét xử, góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vụ án được chính xác, khách quan, đúng pháp luật. Vì thế, để kịp thời phục vụ cho việc thực hiện Bộ luật Hình sự năm 1987, ngày 21 tháng 7 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Nghị định số 117/HĐBT về giám định tư pháp. Tiếp đó, ngày 29 tháng 9 năm 2004, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh Giám định tư pháp, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2005.
Sau 6 năm triển khai thi hành Pháp lệnh, công tác giám định tư pháp đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Hệ thống tổ chức giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự ở Trung ương và địa phương đã được củng cố, kiện toàn, cụ thể là đã thành lập Viện Pháp y Quốc gia, 44 Trung tâm Pháp y, 17 Phòng giám định pháp y cấp tỉnh; Viện giám định Pháp y tâm thần Trung ương thuộc Bộ Y tế, 28 Trung tâm giám định pháp y tâm thần; Viện Khoa học hình sự thuộc Bộ Công an tiếp tục phát triển là tổ chức đầu ngành, làm nòng cốt cho việc kiện toàn các Phòng kỹ thuật hình sự ở Công an cấp tỉnh. Đội ngũ giám định viên tư pháp đã được tăng cường, tính đến nay đã có 3.633 giám định viên trên các lĩnh vực được cấp thẻ giám định viên tư pháp. Cơ sở vật chất, phương tiện công tác và các điều kiện cần thiết khác phục vụ cho hoạt động giám định đã được chú trọng, đầu tư. Công tác quản lý nhà nước về giám định tư pháp bước đầu được đổi mới phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Hoạt động giám định tư pháp đã góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, kết luận giám định đúng đắn, khách quan giúp cho việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án được nghiêm
minh, đúng pháp luật, hạn chế oan sai; giám định tư pháp còn là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo, người bị hại, các bên đương sự trong các vụ án hình sự, dân sự, hành chính, góp phần quan trọng bảo đảm trật tự an toàn xã hội, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, thực tiễn triển khai thi hành Pháp lệnh cho thấy, công tác giám định tư pháp đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập, cần được khắc phục sớm. Đội ngũ người giám định tư pháp còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng. Kết luận giám định tư pháp trong một số trường hợp chưa thực sự chính xác, khách quan; tình trạng mâu thuẫn, xung đột giữa các kết luận giám định không giảm, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiều vụ việc không lựa chọn được tổ chức, chuyên gia phù hợp để trưng cầu giám định hoặc tổ chức, cá nhân được trưng cầu từ chối thực hiện giám định, nhất là trong các lĩnh vực xây dựng, ngân hàng, tài chính, kế toán…, làm cho việc giải quyết một số vụ án, đặc biệt là một số vụ án tham nhũng lớn bị kéo dài. Những hạn chế, yếu kém của công tác giám định tư pháp trong một số lĩnh vực đang trở thành “điểm nghẽn” làm ách tắc nhiều hoạt động tố tụng. Nhận thức của một số ngành, địa phương về vai trò, tầm quan trọng của hoạt động giám định tư pháp chưa đầy đủ, dẫn đến sự thiếu quan tâm, đầu tư cần thiết cho công tác này. Cơ sở vật chất, máy móc, thiết bị của các tổ chức giám định, nhất là ở cấp tỉnh đa phần còn thiếu thốn, lạc hậu.
Một trong những nguyên nhân quan trọng của những hạn chế, bất cập kể trên là thể chế về giám định tư pháp chưa hoàn thiện. Các quy định về tổ chức, hoạt động, quản lý nhà nước về giám định tư pháp chưa đầy đủ, cụ thể và chưa đồng bộ; một số quy định của Pháp lệnh như phạm vi hoạt động giám định tư pháp, quy định về mô hình tổ chức giám định tư pháp, nhất là mô hình tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần… chưa đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế trong giai đoạn mới; chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp còn thiếu các quy định cụ thể về điều kiện, giải pháp thực hiện; quy định về quản lý nhà nước còn sơ hở, lỏng lẻo, chưa làm rõ được cơ chế cộng đồng trách nhiệm của các Bộ, ngành chủ quản và cơ quan đầu mối quản lý nhà nước về giám định tư pháp; còn thiếu các quy định về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc phối hợp với các Bộ, các ngành trong việc quản lý nhà nước về giám định tư pháp… dẫn đến việc thực hiện các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giám định tư pháp rất thiếu thông tin, bị cắt khúc và kém hiệu quả.
Để giải quyết trước mắt một số hạn chế, bất cập nêu trên, ngày 11 tháng 02 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 258/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động giám định tư pháp” và ngày 25 tháng 10 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 1958/CT-TTg về một số giải pháp cấp bách nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, trong đó xác định việc hoàn thiện thể chế về giám định tư pháp là yêu cầu cần phải quan tâm thực hiện sớm.
Trước yêu cầu thực tiễn của công tác giám định tư pháp và để tiếp tục thể chế hoá quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị tại Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám định tư pháp, đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của hoạt động tố tụng và nhu cầu của xã hội, thì việc xây dựng, ban hành Luật Giám định tư pháp là rất cần thiết.
II. MỤC ĐÍCH BAN HÀNH VÀ QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT
1. Mục đích ban hành
Luật Giám định tư pháp được ban hành nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập về thể chế, tạo cơ sở pháp lý cho bước phát triển mới mang tính đột phá, bền vững cho hoạt động giám định tư pháp ở nước ta, góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động tố tụng mà trọng tâm là bảo đảm việc phán quyết của toà án được kịp thời, khách quan, đúng pháp luật.
2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật
Luật Giám định tư pháp được xây dựng trên cơ sở 4 quan điểm chỉ đạo sau đây:
a) Thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về giám định tư pháp theo hướng: Nhà nước tập trung đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng; sắp xếp, đổi mới hệ thống tổ chức pháp y, pháp y tâm thần; thực hiện xã hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên, tạo cơ sở pháp lý cho việc thành lập tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập; mở rộng phạm vi giám định tư pháp để tạo điều kiện cho các đương sự trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần thực thi có hiệu quả chủ trương mở rộng dân chủ, tăng cường tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị.
b) Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Pháp lệnh Giám định tư pháp, kế thừa, phát triển các quy định còn phù hợp của Pháp lệnh, nâng tầm các quy định có tính nguyên tắc trong các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan thành quy định của Luật, đồng thời tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của các nước, thông lệ quốc tế phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.
c) Có chính sách tôn vinh và đãi ngộ để thu hút chuyên gia giỏi tham gia hoạt động giám định tư pháp, làm cơ sở cho việc xây dựng, kiện toàn đội ngũ giám định viên tư pháp, người làm giám định tư pháp có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, ngang tầm nhiệm vụ; quy định một số giải pháp nhằm tháo gỡ “điểm nghẽn” về thiếu người giám định, tổ chức chuyên môn làm giám định ở một số lĩnh vực giám định tư pháp.
d) Bảo đảm tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, sự cộng đồng trách nhiệm của các Bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương với các cơ quan tiến hành tố tụng về bảo đảm nhu cầu, sự đáp ứng kịp thời và chất lượng của hoạt động giám định tư pháp trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CỦA LUẬT GIÁM ĐỊNH TƯ PHÁP
1. Bố cục
Luật Giám định tư pháp gồm 8 chương, với 46 điều.
- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 6)
Chương này quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; nguyên tắc thực hiện giám định tư pháp; trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với hoạt động giám định tư pháp; chính sách của Nhà nước đối với hoạt động giám định tư pháp và các hành vi nghiêm cấm.
- Chương II: Giám định viên tư pháp (từ Điều 7 đến Điều 11)
Chương này quy định về tiêu chuẩn bổ nhiệm giám định viên tư pháp; hồ sơ đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp; thẩm quyền, trình tự, thủ tục bổ nhiệm giám định viên tư pháp; các trường hợp miễn nhiệm giám định viên tư pháp; hồ sơ miễn nhiệm giám định viên tư pháp; thẩm quyền, trình tự, thủ tục miễn nhiệm giám định viên tư pháp; quyền và nghĩa vụ của giám định viên tư pháp.
- Chương III: Tổ chức giám định tư pháp (từ Điều 12 đến Điều 17)
Chương này quy định về hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập; hình thức, tên gọi, điều kiện thành lập, việc cấp phép, đăng ký hoạt động của tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập.
- Chương IV: Người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc (từ Điều 18 đến Điều 20)
Chương này quy định về người giám định tư pháp theo vụ việc và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; lập và công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc và tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc.
- Chương V: Hoạt động giám định (từ Điều 21đến Điều 35)
Chương này quy định về trưng cầu, yêu cầu giám định; quyền và nghĩa vụ của người trưng cầu giám định, của người yêu cầu giám định, của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định, của tổ chức được trưng cầu, yêu cầu giám định; giao nhận hồ sơ, đối tượng giám định; giám định cá nhân, giám định tập thể; giám định bổ sung, giám định lại; hội đồng giám định; kết luận giám định tư pháp; hồ sơ giám định tư pháp; những trường hợp không được thực hiện giám định tư pháp; tương trợ tư pháp về giám định tư pháp.
- Chương VI: Chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp (từ Điều 36 đến Điều 38).
Chương này quy định về chi phí giám định tư pháp; chế độ đối với người giám định tư pháp và người tham gia định tư pháp và chính sách đối với hoạt động giám định tư pháp.
- Chương VII: Trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp (từ Điều 39 đến Điều 44)
Chương này quy định về cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp; nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp, Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, cơ quan ngang Bộ quản lý về lĩnh vực giám định tư pháp; nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; trách nhiệm của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Chương VIII: Điều khoản thi hành (từ Điều 45 đến Điều 46)
Chương này quy định hiệu lực thi hành và quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
2. Những nội dung cơ bản của Luật Giám định tư pháp
2.1. Phạm vi điều chỉnh
Điều 1 quy định phạm vi điều chỉnh của Luật Giám định tư pháp. Theo đó, Luật quy định về giám định viên tư pháp; tổ chức giám định tư pháp; người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; hoạt động giám định tư pháp; chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp và trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp.
Trong quá trình soạn thảo, có ý kiến cho rằng, cùng với Luật giám định tư pháp thì các văn bản pháp luật về tố tụng như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính cũng có quy định về hoạt động giám định tư pháp. Vì vậy, Luật giám định tư pháp chỉ quy định về tổ chức giám định tư pháp, còn trình tự, thủ tục giám định nên được quy định trong các Bộ luật tố tụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu cho thấy, pháp luật tố tụng hiện hành chỉ quy định nguyên tắc các vấn đề liên quan đến giám định tư pháp mà không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giám định tư pháp như: hồ sơ giám định, văn bản trưng cầu giám định, văn bản kết luận giám định, việc giao nhận đối tượng giám định, một số quyền và nghĩa vụ cụ thể của người giám định tư pháp khi thực hiện giám định, kết luận giám định v.v. Do đó, Luật giám định tư pháp là văn bản chuyên ngành quy định về hoạt động giám định tư pháp nên cần phải quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giám định làm cơ sở pháp lý cho việc trưng cầu và thực hiện giám định, để hoạt động giám định tư pháp được hiệu quả, minh bạch, khách quan.
2.2. Về quyền yêu cầu giám định tư pháp
Điều 2 (khoản 1) Luật quy định: “Giám định tư pháp là việc người giám định tư pháp sử dụng kiến thức, phương tiện, phương pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn những vấn đề có liên quan đến hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính theo trưng cầu của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng hoặc theo yêu cầu của người yêu cầu giám định theo quy định của Luật này”. Người yêu cầu giám định bao gồm: đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ, trừ trường hợp việc yêu cầu giám định liên quan đến việc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo (khoản 3 Điều 2).
Như vậy, quyền yêu cầu giám định tư pháp quy định trong Luật có mở rộng hơn so với Pháp lệnh Giám định tư pháp 2004. Theo quy định của Pháp lệnh (Điều 1) thì chỉ có cơ quan tiến hành tố tụng (cơ quan điều tra, kiểm sát, tòa án) mới được trưng cầu giám định tư pháp, đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ nêu trên chỉ có quyền đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu giám định chứ không được trực tiếp yêu cầu cá nhân, tổ chức thực hiện giám định. Quy định này của Luật đã mở ra cơ hội mới, tạo điều kiện chủ động cho các bên đương sự chủ động thu thập chứng cứ để chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đây là bước tiến đáng kể trong hoạt động tư pháp theo tinh thần cải cách tư pháp, tăng cường dân chủ hóa hoạt động tố tụng, góp phần mở rộng quyền tự do dân chủ của công dân, hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Trong quá trình soạn thảo, có ý kiến đề nghị cho phép bị can, bị cáo trong vụ án hình sự cũng được quyền tự mình yêu cầu tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện quy định trong Luật thực hiện giám định tư pháp. Qua nghiên cứu thấy rằng, việc mở rộng quyền của đương sự được tự mình yêu cầu giám định tư pháp để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong hoạt động tố tụng, bảo đảm quyền cung cấp chứng cứ của đương sự trong các vụ việc dân sự và vụ án hành chính là phù hợp với tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (Nghị quyết số 49-NQ/TW). Tuy nhiên, đối với bị can, bị cáo, theo nguyên tắc tố tụng hình sự, việc chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định đã được Bộ luật tụng hình sự quy định cụ thể, nên không cần quy định quyền yêu cầu giám định của các đối tượng này. Vì vậy, Luật không có quy định cho phép bị can, bị cáo thực hiện quyền tự yêu cầu giám định tư pháp.
2.3. Về giám định viên tư pháp
- Về tiêu chuẩn giám định viên tư pháp
Điều 7 Luật Giám định tư pháp quy định về tiêu chuẩn của giám định viên tư pháp. Theo đó, Luật vẫn giữ nguyên tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm như quy định của Pháp lệnh đối với giám định viên tư pháp trong các lĩnh vực văn hóa, tài chính, xây dựng…, cụ thể các tiêu chuẩn đó là: công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên có thể được xem xét, bổ nhiệm giám định viên tư pháp. Người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp có thể là công chức, viên chức nhà nước hoặc cũng có thể là người hành nghề tự do.
Riêng đối với người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên tư pháp trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì ngoài các tiêu chuẩn trên còn phải có Chứng chỉ đã được bồi dưỡng nghiệp vụ giám định. Đây là quy định mới của Luật so với Pháp lệnh. Sở dĩ có quy định này vì: do đặc thù của hoạt động giám định tư pháp trong các lĩnh vực này là người có chuyên môn về y tế hay kỹ thuật hình sự cũng chưa thể thực hiện giám định được theo yêu cầu (ví dụ: khi có một vết thương trên một người, một bác sĩ bình thường thì chỉ quan tâm đến vết thương đó dài, rộng, nông, sâu như thế nào? còn giám định viên pháp y cần ngoài việc xác định dài, rộng, nông, sâu cần phải xác định vết thương đó do vật nào gây nên, cơ chế tổn thương như thế nào để làm cơ sở cho việc điều tra, giải quyết vụ án).
Một điểm mới nữa trong quy định của Luật về tiêu chuẩn của giám định viên pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự là: đối với người đã trực tiếp giúp việc trong hoạt động giám định ở tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần, kỹ thuật hình sự thì thời gian hoạt động thực tế chuyên môn chỉ cần từ đủ 03 năm trở lên (không phải 5 năm) cũng được xem xét bổ nhiệm giám định viên tư pháp.
- Về trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp
Điều 9 và Điều 10 của Luật quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên tư pháp. So với các quy định của Pháp lệnh thì thẩm quyền bổ nhiệm giám định viên tư pháp ở Trung ương có sự thay đổi (Pháp lệnh quy định việc bổ nhiệm giám định viên tư pháp do Bộ trưởng quản lý người được đề nghị thực hiện). Tuy nhiên, theo quy định của Luật thì Bộ trưởng Bộ quản lý lĩnh vực chuyên môn sẽ thực hiện việc bổ nhiệm giám định viên thuộc lĩnh vực quản lý của mình (Bộ trưởng Bộ Y tế bổ nhiệm giám định viên pháp y trong cả ngành công an trong toàn quốc, Bộ trưởng Bộ Công an bổ nhiệm giám định viên kỹ thuật hình sự trong cả quân đội). Sở dĩ có sự thay đổi này vì: xét về bản chất, giám định viên tư pháp không phải là chức danh hành chính mà là chức danh chuyên môn nên việc giao cho Bộ Y tế là Bộ chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần thực hiện bổ nhiệm giám định viên trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần ở Trung ương, trong đó có cả giám định viên pháp y thuộc Bộ Công an, Bộ Quốc phòng; Bộ Công an là Bộ chịu trách nhiệm quản lý về lĩnh vực kỹ thuật hình sự thực hiện bổ nhiệm giám định viên về kỹ thuật hình sự trong đó có cả giám định viên kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng v.v. là hoàn toàn phù hợp nhằm nâng cao trách nhiệm của các Bộ được giao quản lý lĩnh vực chuyên môn về giám định tư pháp trong việc bảo đảm số lượng, chất lượng đội ngũ người làm giám định tư pháp, đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng hiện nay.
- Điều 10 Luật quy định rõ ràng hơn đối với trường hợp giám định viên tư pháp là công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng có Quyết định nghỉ việc để hưởng chế độ hưu trí hoặc thôi việc. Đối với những trường hợp này, không thực hiện miễn nhiệm giám định viên tư pháp, trừ trường hợp họ có nguyên vọng xin thôi làm giám định viên, vì đây là những chuyên gia có kinh nghiệm, rất cần thiết cho hoạt động giám định tư pháp, nhất là trong điều kiện thiếu đội ngũ giám định viên như hiện nay.
- Về quyền và nghĩa vụ của người giám định tư pháp
Điều luật này quy định về các quyền và nghĩa vụ của giám định viên tư pháp như: quyền được thành lập Văn phòng giám định tư pháp, tham gia Hội giám định viên tư pháp, được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp luật, được hưởng các chế độ chính sách của nhà nước.v.v. Đây là những nghĩa vụ “thường xuyên có” của giám định viên tư pháp. Ngoài ra, khi thực hiện giám định, giám định viên tư pháp còn có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều 23 của Luật.
2.4. Về tổ chức giám định tư pháp
Quán triệt Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: "Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hoá đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên”, Luật Giám định tư pháp quy định có 02 loại tổ chức giám định tư pháp, đó là: tổ chức giám định tư pháp công lập và tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập.
a) Tổ chức giám định tư pháp công lập:
Tổ chức giám định tư pháp công lập được quy định tại Điều 12 của Luật. Theo đó, tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập được thành lập trong 3 lĩnh vực giám định có tính “truyền thống” là pháp y, pháp y tâm thần và kỹ thuật hình sự. Cụ thể mô hình tổ chức giám định tư pháp công lập được quy định như sau:
- Tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y bao gồm: Viện pháp y quốc gia thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y cấp tỉnh; Viện pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc phòng; Trung tâm giám định pháp y thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ Công an.
- Tổ chức giám định tư pháp công lập về pháp y tâm thần bao gồm: Viện pháp y tâm thần trung ương thuộc Bộ Y tế; Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thuộc Bộ Y tế.
-Tổ chức giám định tư pháp công lập về kỹ thuật hình sự bao gồm: Viện khoa học hình sự thuộc Bộ Công an; Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh; Phòng giám định kỹ thuật hình sự thuộc Bộ Quốc phòng. Ở địa phương, căn cứ vào nhu cầu và điều kiện thực tế của địa phương, Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh có giám định viên pháp y thực hiện giám định pháp y tử thi.
Đối với các lĩnh vực khác như xây dựng, văn hóa, tài chính - kế toán … trong trường hợp xét thấy cần thiết, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, có thể quyết định thành lập hoặc trình cơ quan có thẩm quyền thành lập, sau khi thống nhất ý kiến với Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Quy định theo hướng mở này nhằm mục đích dành quyền cho Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định tùy thuộc vào nhu cầu giám định, vì thực tế cho thấy, nhu cầu giám định ở các địa phương là không giống nhau (ví dụ: trong lĩnh vực văn hóa, TP Hồ Chí Minh có số lượng vụ việc giám định rất lớn và có nhu cầu thành lập tổ chức giám định văn hóa nhưng các địa phương khác lại ít).
Về mô hình tổ chức giám định tư pháp công lập, trong quá trình soạn thảo, có một số ý kiến đề nghị không nên quy định cụ thể tên gọi, mô hình tổ chức tổ chức giám định tư pháp mà chỉ nên quy định nguyên tắc tổ chức. Tên gọi, mô hình tổ chức giám định tư pháp cụ thể giao Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quy định. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thấy rằng, tổ chức giám định tư pháp không phải là tổ chức hành chính đơn thuần mà là tổ chức bổ trợ tư pháp, hoạt động của các tổ chức này phục vụ cho hoạt động tố tụng nên trong Luật cần phải xác định rõ ràng hệ thống tổ chức để đáp ứng yêu cầu của hoạt động tố tụng. Quy định này cũng tương tự như quy định về hệ thống tổ chức cơ quan điều tra trong Pháp lệnh về tổ chức điều tra hình sự hiện hành. Đây cũng là sự kế thừa mô hình tổ chức giám định tư pháp đã được quy định và vận hành theo Pháp lệnh, có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp trong điều kiện mới. Luật Giám định tư pháp chỉ quy định có tính nguyên tắc về hệ thống tổ chức giám định tư pháp công lập, còn các chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các tổ chức này được giao cho Chính phủ quy định (khoản 7 Điều 12).
Như vậy, so với Pháp lệnh thì quy định của Luật về mô hình tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần có sự thay đổi, cụ thể là:
- Luật quy định tổ chức giám định pháp y công lập ở địa phương chỉ có một hình thức tổ chức duy nhất là Trung tâm pháp y, thay vì Trung tâm pháp y hoặc Phòng giám định pháp y thuộc Bệnh viện đa khoa tỉnh như trước đây. Giám định viên pháp y thuộc Phòng kỹ thuật hình sự thuộc Công an cấp tỉnh chỉ thực hiện giám định pháp y tử thi, không thực hiện giám định pháp y về thương tích.
- Tổ chức giám định tư pháp trong lĩnh vực pháp y tâm thần được đổi mới căn bản, theo đó, Nhà nước thành lập Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thay cho Trung tâm pháp y tâm thần tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Quy định này để thu gọn đầu mối, tập trung nguồn lực và phù hợp với thực tế về nhu cầu giám định pháp y tâm thần, đồng thời phù hợp với yêu cầu của giám định pháp y tâm thần là phải có khu riêng biệt để lưu giữ đối tượng khám chữa bệnh bắt buộc và đối tượng giám định, phù hợp với nhu cầu, đối tượng giám định (nhu cầu giám định ít, hàng năm, mỗi tỉnh, thành phố chỉ thực hiện khoảng 10-20 trường hợp, đối tượng giám định pháp y tâm thần không phải là “nóng”).
b) Tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập:
Đây là một trong những điểm mới cơ bản của Luật Giám định tư pháp, mang tính cải cách đột phá trong hoạt động giám định tư pháp. Quy định này là một bước đẩy mạnh chủ trương xã hội hóa hoạt động giám định tư pháp nhằm huy động tối đa nguồn lực của xã hội cho hoạt động giám định tư pháp, bảo đảm cho cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều lựa chọn khi xem xét, quyết định trưng cầu giám định trong điều kiện còn thiếu giám định viên, thiếu tổ chức để trưng cầu giám định. Quy định này phù hợp với quy luật của kinh tế thị trường và nguyên lý xã hội hoá các dịch vụ công.
- Phạm vi, hình thức hoạt động của tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập:
Theo quy định tại Điều 14 thì tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập hoạt động dưới hình thức Văn phòng giám định tư pháp. Văn phòng giám định tư pháp được thành lập trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, xây dựng, cổ vật, di vật, bản quyền tác giả. Văn phòng giám định tư pháp do 01 giám định viên tư pháp thành lập thì được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân. Văn phòng giám định tư pháp do 02 giám định viên tư pháp trở lên thành lập thì được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh.
Điều 15 quy định giám định viên tư pháp phải có từ đủ 05 năm trở lên là giám định viên tư pháp trong lĩnh vực đề nghị thành lập Văn phòng và có Đề án thành lập theo quy định của Luật (tại điểm d khoản 2 Điều 16). Tuy nhiên, cán bộ, công chức, viên chức, sĩ quan quân đội, sĩ quan công an nhân dân, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng không được thành lập Văn phòng giám định tư pháp.
- Quyết định cho phép thành lập và đăng ký hoạt động của Văn phòng giám định tư pháp:
Điều 16 của Luật quy định giám định viên tư pháp xin phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp gửi hồ sơ xin phép thành lập đến Sở Tư pháp. Sở Tư pháp có trách nhiệm thẩm định hồ sơ xin phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp và thống nhất ý kiến với cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý lĩnh vực giám định tư pháp, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định.
Trong thời hạn 01 năm, kể từ ngày Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép thành lập, Văn phòng giám định tư pháp đăng ký hoạt động tại Sở Tư pháp.
Trong quá soạn thảo có ý kiến cho rằng, quy định thời gian 01 năm sau khi được phép thành lập Văn phòng giám định tư pháp, Văn phòng mới đăng ký hoạt động là quá dài. Tuy nhiên, khác với các tổ chức hành nghề khác, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động giám định tư pháp là một trong những điều kiện cần thiết khi Văn phòng đi vào hoạt động, trong khi đó, việc đầu tư mua sắm trang thiết bị lại rất mất thời gian (có những loại máy móc cần phải đặt ở nước ngoài) nên việc quy định thời hạn 01 năm nêu trên là phù hợp.
2.5. Về người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc
Hoạt động giám định tư pháp liên quan đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhu cầu giám định hết sức đa dạng, bởi vậy, việc Nhà nước đầu tư xây dựng một số tổ chức giám định tư pháp chuyên trách, bổ nhiệm giám định viên tư pháp cũng không thể “phủ” hết để đáp ứng yêu cầu giám định được. Vì vậy, rất cần có người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc để đáp ứng yêu cầu giám định, mặt khác, xét về bản chất của giám định tư pháp là ý kiến của chuyên gia, còn việc bổ nhiệm giám định viên tư pháp là để bảo đảm đội ngũ người giám định thường xuyên (thực tế, Bộ Tư pháp đã lập và công bố danh sách 500 người giám định tư pháp theo vụ việc trên nhiều lĩnh vực khác nhau). Đây cũng là kinh nghiệm và thông lệ thế giới về giám định tư pháp. Kế thừa tinh thần của Pháp lệnh Giám định tư pháp hiện hành, Luật Giám định tư pháp dành một Chương riêng quy định về người giám định tư pháp, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc. Để khắc phục những bất cập, thậm chí đã trở thành “điểm nghẽn” trong hoạt động giám định thời gian qua về việc khó khăn tìm kiếm, lựa chọn, trưng cầu tổ chức chuyên môn thực hiện giám định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động tố tụng, ngoài việc sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến cơ chế về phí, chi phí giám định tư pháp cho phù hợp với quy luật cung cầu của cơ chế thị trường, Luật đã quy định rõ cơ chế lựa chọn, lập và công bố các tổ chức chuyên môn và trách nhiệm của các Bộ, ngành trong việc bảo đảm việc công bố, giới thiệu các chuyên gia, tổ chức chuyên môn có uy tín thực hiện giám định tư pháp để phục vụ kịp thời yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng.
- Người giám định tư pháp theo vụ việc phải là công dân Việt Nam thường trú tại Việt Nam có sức khỏe, phẩm chất đạo đức tốt; có trình độ đại học trở lên và đã qua thực tế hoạt động chuyên môn ở lĩnh vực được đào tạo từ đủ 05 năm trở lên.
Trong trường hợp người không có trình độ đại học nhưng có kiến thức chuyên sâu và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn về lĩnh vực cần giám định thì có thể được lựa chọn làm người giám định tư pháp theo vụ việc (Điều 18).
- Tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc phải có tư cách pháp nhân, có hoạt động chuyên môn phù hợp với nội dung được trưng cầu, yêu cầu giám định và có điều kiện về cán bộ chuyên môn, cơ sở vật chất bảo đảm cho việc thực hiện giám định (Điều 19).
2.6. Về hoạt động giám định tư pháp
Kế thừa các quy định của Pháp lệnh Giám định tư pháp hiện hành, tại Chương V của Luật quy định rõ hơn các vấn đề liên quan đến hoạt động trưng cầu và thực hiện giám định tư pháp, quyền và nghĩa vụ của người trưng cầu giám định cũng như các tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tư pháp. Luật cũng quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người tự yêu cầu giám định tư pháp (đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ) cho phù hợp với việc mở rộng phạm vi như đã nêu ở trên. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định cơ chế giải quyết xung đột kết luận giám định để khắc phục những bất cập hiện nay liên quan đến vấn đề này.
2.7. Chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp
- Về chi phí giám định tư pháp: Điều 36 của Luật quy định: “Người trưng cầu giám định, người yêu cầu giám định có trách nhiệm trả chi phí giám định tư pháp cho cá nhân, tổ chức thực hiện giám định tư pháp theo quy định của pháp luật về chi phí giám định tư pháp”.
Vấn đề này thực tiễn thời gian qua là một trong những bất cập, làm ách tắc nhiều hoạt động giám định tư pháp do quy định hiện hành về chi phí giám định tư pháp chưa rõ ràng, dẫn đến hoạt động giám định chưa được nhận chi phí một cách đầy đủ, kịp thời, tương xứng với công sức, trí tuệ của người giám định cũng như những chi phí cần thiết khác. Để giải quyết vấn đề này Ủy ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh chi phí giám định, định giá; chi phí cho người làm chứng, người phiên dịch trong tố tụng (Pháp lệnh số 02/2012/UBTVQH 13). Theo quy định của Pháp lệnh thì “chi phí giám định là số tiền cần thiết, hợp lý phải chi trả cho công việc giám định do tổ chức, cá nhân thực hiện giám định tính căn cứ vào quy định của Pháp lệnh này và các quy định khác của pháp luật có liên quan”; Pháp lệnh quy định nguyên tắc thu chi phí giám định (Điều 4), nguyên tắc xác định chi phí giám định (Điều 9), chi phí giám định bổ sung, giám định lại (Điều 10)...
- Về chế độ, chính sách: Luật quy định mang tính nguyên tắc những chính sách, chế độ đãi ngộ, đào tạo, bồi dưỡng và tôn vinh người làm giám định tư pháp để thu hút các chuyên gia giỏi, cán bộ có năng lực chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp tham gia hoạt động giám định tư. Luật đã dành 01 điều quy định về chế độ đối với người giám định tư pháp và người tham gia giám định tư pháp (Điều 37) và 01 điều quy định về chính sách đối với hoạt động giám định tư pháp (Điều 38).
2.8. Về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp
Hoạt động giám định tư pháp là hoạt động chuyên môn phục vụ yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng thuộc trách nhiệm quản lý của tất cả các Bộ, ngành. Để khắc phục tình trạng không rõ ràng và thiếu hiệu quả trong quản lý nhà nước về giám định tư pháp hiện nay, Luật quy định về cơ quan quản lý nhà nước về giám định tư pháp; nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp với trách nhiệm giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước; đề cao và làm rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành chủ quản, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc thực hiện quản lý nhà nước về giám định tư pháp, đặc biệt là các Bộ, ngành chịu trách nhiệm trước Chính phủ về tổ chức, hoạt động giám định tư pháp thuộc lĩnh vực quản lý. Đồng thời, Luật bổ sung quy định mới về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với hoạt động giám định tư pháp (cơ quan điều tra, Toà án, Viện kiểm sát), tạo ra cơ chế cộng đồng trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động giám định tư pháp.
IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Luật Giám định tư pháp đặt ra những nhiệm vụ mới trong quản lý nhà nước về giám định tư pháp như: Tập trung đầu tư cho một số lĩnh vực giám định tư pháp để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng; sắp xếp, đổi mới hệ thống tổ chức pháp y, pháp y tâm thần; thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên; mở rộng quyền được yêu cầu giám định tạo điều kiện cho các đương sự trong các vụ việc dân sự, vụ án hành chính chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần thực thi có hiệu quả chủ trương mở rộng dân chủ, tăng cường tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp của Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. Để triển khai thực hiện có hiệu quả Luật giám định tư pháp, cần thực hiện tốt nhiệm vụ cụ thể sau:
1. Phổ biến, quán triệt triển khai Luật Giám định tư pháp
1.1. Các Bộ, ngành, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tổ chức phổ biến, quán triệt, tập huấn nội dung Luật Giám định tư pháp.
1.2. Tổ chức 02 Hội nghị triển khai thi hành Luật tại khu vực phía Bắc và phía Nam để giới thiệu nội dung cơ bản của Luật và những việc mà các Bộ, ngành và địa phương cần phải triển khai thực hiện.
1.3. Tổ chức Hội nghị giao ban chuyên đề quán triệt Luật giám định tư pháp và thống nhất các nội dung cần triển khai thực hiện được quy định trong Luật thuộc thẩm quyền của các Bộ, ngành.
1.4. Tổ chức giới thiệu, phổ biến nội dung của Luật bằng các hình thức phù hợp với từng đối tượng: biên soạn, phát hành các tài liệu phổ biến, giới thiệu Luật; phối hợp với các cơ quan báo chí tổ chức thực hiện các chuyên mục, chương trình, tin, bài phổ biến Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành, trong đó có các cơ quan báo chí của ngành.
2. Tổ chức rà soát văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến tổ chức và hoạt động giám định tư pháp để ban hành hoặc kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản thay thế, sửa đổi, bổ sung.
- Bộ Tư pháp rà soát các văn bản pháp luật về tố tụng, các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ và của Bộ Tư pháp liên quan đến tổ chức và hoạt động giám định tư pháp.
- Các Bộ, ngành rà soát các văn bản pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ, ngành mình liên quan đến tổ chức, hoạt động giám định tư pháp.
3. Xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn triển khai Luật Giám định tư pháp
3.1. Xây dựng Nghị định quy định chi tiết và các biện pháp thi hành Luật Giám định tư pháp.
- Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản mà Chính phủ được giao hướng dẫn: Điều 12 về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của tổ chức giám định tư pháp công lập; Điều 37 về chế độ đối với người giám định tư pháp; Điều 38 về chính sách đối với tổ chức giám định tư pháp ngoài công lập.
- Hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật để đáp ứng yêu cầu về tổ chức, hoạt động và quản lý nhà nước về giám định tư pháp.
3.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện Luật Giám định tư pháp.
Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và các Bộ, ngành ban hành văn bản pháp luật được giao trong Luật hoặc văn bản pháp luật hướng dẫn về lĩnh vực giám định thuộc thẩm quyền quản lý của mình về các nội dung sau đây:
- Hướng dẫn về tiêu chuẩn giám định viên tư pháp ở từng lĩnh vực;
- Quy định quy chuẩn chuyên môn hoặc hướng dẫn áp dụng quy chuẩn chuyên môn cho hoạt động giám định tư pháp theo yêu cầu và đặc thù của lĩnh vực giám định thuộc thẩm quyền quản lý;
- Quy định biểu mẫu về giám định tư pháp;
- Quy định về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện giám định cho tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực pháp y, pháp y tâm thần;
- Quy định về điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện giám định cho tổ chức giám định tư pháp công lập trong lĩnh vực kỹ thuật hình sự;
- Quy định các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện giám định phục vụ cho việc thành lập Văn phòng giám định tư pháp;
- Hướng dẫn Pháp lệnh về chi phí giám định, định giá; chi phí người làm chứng, người phiên dịch.
3.3. Xây dựng, ban hành các văn bản về chế độ, chính sách để thu hút chuyên gia, tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp ở địa phương
Căn cứ vào khả năng, điều kiện thực tế ở địa phương, Sở Tư pháp tham mưu cho cơ quan có thẩm quyền ở địa phương xây dựng văn bản về chế độ, chính sách để thu hút chuyên gia, tổ chức có năng lực tham gia hoạt động giám định tư pháp theo quy định tại khoản 3 Điều 38 của Luật Giám định tư pháp.
4. Xây dựng Đề án thành lập Trung tâm pháp y tâm thần khu vực và triển khai thực hiện.
5. Rà soát, tăng cường đội ngũ giám định viên tư pháp; củng cố, kiện toàn các tổ chức giám định tư pháp công lập, bảo đảm kinh phí cho các tổ chức giám định tư pháp công lập; chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện việc thẩm định hồ sơ xin phép thành lập và đăng ký hoạt động của Văn phòng giám định tư pháp.
6. Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ, kiến thức pháp luật cho người giám định tư pháp, người tiến hành tố tụng
7. Kiểm tra và sơ kết 03 năm thực hiện Luật Giám định tư pháp
7.1. Tổ chức kiểm tra tình hình thực hiện Luật Giám định tư pháp tại một số bộ, ngành, địa phương phục vụ sơ kết 03 năm thực hiện Luật.
7.2. Tổ chức Hội nghị sơ kết 03 năm thực hiện Luật Giám định tư pháp.