24/02/2013 09:47        

Đề cương giới thiệu Luật Xuất bản

BỘ TƯ PHÁP

VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

_____________________________

 

BỘ THÔNG TIN VÀ TRUYỀN THÔNG

CỤC XUẤT BẢN

_____________


 

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT XUẤT BẢN

 

Ngày 20 tháng 11 năm 2012, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII đã thông qua Luật Xuất bản. Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh công bố Luật Xuất bản và Luật có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2013 (sau đây gọi là Luật Xuất bản 2012).

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT XUẤT BẢN 2012

Luật Xuất bản số 30/2004/QH11 được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ ba thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2008/QH12 để đáp ứng yêu cầu về thực thi cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Qua hơn 7 năm thi hành, Luật Xuất bản hiện hành đã tạo hành lang pháp lý tương đối thuận lợi cho hoạt động xuất bản, tạo điều kiện để hoạt động này phát triển một bước cả về số lượng và chất lượng, góp phần nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu đọc ngày càng đa dạng của nhân dân. Tuy vậy, Luật Xuất bản hiện hành cũng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập như sau:

- Chưa kịp thời thể chế hóa đầy đủ chủ trương, định hướng mới của Đảng về hoạt động xuất bản. Mặt khác, do được ban hành từ năm 2004 nên một số quy định của Luật hiện hành đối với lĩnh vực xuất bản còn thiếu đồng bộ với một số luật có liên quan được ban hành sau đó.

- Một số quy định về liên kết xuất bản, về in xuất bản phẩm chưa đầy đủ, chưa xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể tham gia dẫn đến hiện tượng buông lỏng quản lý trong hoạt động liên kết ở nhiều nhà xuất bản và tình trạng in lậu xuất bản phẩm ngày càng gia tăng trong thời gian qua. Cùng với đó, quy định về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn đối với các chức danh lãnh đạo nhà xuất bản, biên tập viên còn thiếu, chưa tạo điều kiện nâng để cao chất lượng đối với đội ngũ này.

- Bên cạnh đó, Luật hiện hành cũng chưa bao quát điều chỉnh đối với các cơ sở phát hành xuất bản phẩm nên việc thành lập cơ sở phát hành không theo quy hoạch, hầu hết chỉ tập trung tại các địa bàn đô thị, đông dân cư còn ở các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo hệ thống phát hành sách còn thiếu trầm trọng, thậm chí nhiều nơi bị tan rã, bị giải thể, không có hiệu sách. Hiện tượng tàng trữ, phát hành các loại sách in lậu, in nối bản trái phép, sách không rõ nguồn gốc, sách nhập khẩu lậu, sách đã bị đình chỉ phát hành hoặc đã có quyết định thu hồi, tiêu hủy vẫn diễn ra…

- Trước sự phát triển nhanh chóng về công nghệ thông tin, thời gian qua hoạt động xuất bản xuất bản phẩm điện tử đã ra đời và ngày càng trở thành một xu thế tất yếu. Các xuất bản phẩm điện tử đã xuất hiện dưới nhiều hình thức đa dạng (trên Internet, điện thoại di động, máy tính bảng, máy đọc sách, v,v...). Trong khi đó, Luật xuất bản hiện hành mới đề cập đến xuất bản xuất bản phẩm trên mạng Internet chỉ với một điều trong luật.

Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về phát triển hoạt động xuất bản và để khắc phục những bất cập, hạn chế của Luật Xuất bản hiện hành, tại kỳ họp thứ 4, ngày 20 tháng 11 năm 2012, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã biểu quyết thông qua Luật Xuất bản.

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT XUẤT BẢN NĂM 2012

Luật Xuất bản năm 2012 được xây dựng dựa trên những quan điểm chỉ đạo như sau:

1. Tiếp tục thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng đối với hoạt động xuất bản;

2. Bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật Việt Nam, phù hợp với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên;

3. Kế thừa và phát huy ưu điểm của các quy định trong Luật hiện hành, đồng thời sửa đổi, bổ sung những quy định mới nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế phát sinh;

4. Tăng cường các biện pháp, cơ chế bảo đảm tính thống nhất, công bằng, minh bạch và tạo điều kiện để hoạt động xuất bản, in, phát hành phát triển lành mạnh, đúng định hướng của Đảng.

III. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT XUẤT BẢN NĂM 2012

Luật xuất bản 2012 được bố cục thành 06 Ch­ương, 54 Điều, cụ thể là:

- Chương I: Những quy định chung

Chương này gồm 11 điều (từ Điều 1 đến Điều 11),  gồm các quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; vị trí, mục đích của hoạt động xuất bản; giải thích từ ngữ; Bảo đảm quyền phổ biến tác phẩm, bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan; quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản; chính sách của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản; thành lập văn phòng đại diện tại Việt Nam của nhà xuất bản nước ngoài, của tổ chức phát hành xuất bản phẩm nước ngoài; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động xuất bản; những nội dung và hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản; xử lý vi phạm trong hoạt động xuất bản.

- Chương II: Lĩnh vực xuất bản

Chương này gồm 19 điều (từ Điều 12 đến Điều 30), gồm các quy định về Đối tượng thành lập nhà xuất bản và loại hình tổ chức nhà xuất bản; Điều kiện thành lập nhà xuất bản; cấp, thu hồi giấy phép thành lập và đình chỉ hoạt động của nhà xuất bản; Cấp đổi giấy phép thành lập nhà xuất bản; nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chủ quản nhà xuất bản; tiêu chuẩn các chức danh tổng giám đốc (giám đốc) và tổng biên tập nhà xuất bản; nhiệm vụ và quyền hạn của tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập nhà xuất bản; tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn của biên tập viên; cấp, thu hồi, cấp lại chứng chỉ hành nghề biên tập; quyền tác giả trong lĩnh vực xuất bản; đăng ký xuất bản và xác nhận đăng ký xuất bản; Liên kết trong hoạt động xuất bản; tác phẩm, tài liệu phải thẩm định nội dung trước khi tái bản; cấp giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh; xuất bản tác phẩm, tài liệu của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam; thông tin ghi trên xuất bản phẩm; nộp xuất bản phẩm lưu chiểu và nộp xuất bản phẩm cho Thư viện Quốc gia Việt Nam; đọc, kiểm tra xuất bản phẩm lưu chiểu và thẩm quyền xử lý xuất bản phẩm vi phạm; quảng cáo trên xuất bản phẩm.

- Chương III: Lĩnh vực in xuất bản phẩm

Chương này gồm 05 điều (từ Điều 31 đến Điều 35) quy định về hoạt động của cơ sở in xuất bản phẩm; cấp, cấp lại, thu hồi giấy phép hoạt động in xuất bản phẩm; điều kiện nhận in xuất bản phẩm; in gia công xuất bản phẩm cho nước ngoài và trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở in xuất bản phẩm. 

- Chương IV: Lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm

Chương này gồm 09 điều (từ Điều 36 đến Điều 44), quy định về hoạt động phát hành xuất bản phẩm; đăng ký hoạt động phát hành xuất bản phẩm; cấp giấy phép hoạt động kinh doanh nhập khẩu xuất bản phẩm; đăng ký nhập khẩu xuất bản phẩm; trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở phát hành xuất bản phẩm, cơ sở nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh; cấp giấy phép nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh; các trường hợp nhập khẩu xuất bản phẩm không kinh doanh không phải đề nghị cấp giấy phép; xuất khẩu xuất bản phẩm; triển lãm, hội chợ xuất bản phẩm.

- Chương V: Xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử

Chương này gồm 08 điều (từ Điều 45 đến Điều 52) quy định về điều kiện xuất bản và phát hành xuất bản phẩm; cách thức thực hiện xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử; kỹ thuật, công nghệ để xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử; nộp lưu chiểu xuất bản phẩm điện tử và nộp cho Thư viện Quốc gia; quảng cáo trên xuất bản phẩm điện tử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử; nhập khẩu xuất bản phẩm điện tử.

- Chương VI: Điều khoản thi hành

Gồm 02 điều (từ Điều 53 đến Điều 54) quy định về hiệu lực thi hành và quy định chi tiết thi hành.

IV. CÁC QUY ĐỊNH MỚI, ĐÁNG CHÚ Ý TRONG LUẬT XUẤT BẢN NĂM 2012

1. Về chính sách của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản (Điều 7)

Luật quy định bổ sung, cụ thể hóa nhiều chính sách của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản so với Luật hiện hành như sau:

1.1. Chính sách chung cho hoạt động xuất bản gồm: chiến lược, quy hoạch phát triển mạng lưới nhà xuất bản, cơ sở in, cơ sở phát hành xuất bản phẩm; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; ưu đãi về thuế theo quy định của pháp luật cho hoạt động xuất bản; có chính sách thu hút các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động xuất bản.

1.2. Trong từng lĩnh vực cụ thể:

- Đối với lĩnh vực xuất bản, Nhà nước có các chính sách sau đây:

“ Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho nhà xuất bản phục vụ nhiệm vụ, đối tượng và địa bàn quy định tại điểm b khoản này;

 Đặt hàng để có bản thảo và xuất bản tác phẩm, tài liệu phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo, thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thị và các nhiệm vụ trọng yếu khác;

 Mua bản thảo đối với những tác phẩm có giá trị nhưng thời điểm xuất bản chưa thích hợp hoặc đối tượng sử dụng hạn chế; hỗ trợ mua bản quyền đối với tác phẩm trong nước và nước ngoài có giá trị phục vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội;

 Ưu đãi lãi suất vay vốn theo quy định của pháp luật.”

- Đối với lĩnh vực in xuất bản phẩm, Nhà nước có các chính sách sau đây:

“ Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng, chuyển giao công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo;

 Ưu đãi về tiền thuê đất để làm nhà xưởng và lãi suất vay vốn cho cơ sở in phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại và cơ sở in tại vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo.”

- Đối với lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm, Nhà nước có các chính sách sau đây:

Ưu tiên đầu tư quỹ đất và kinh phí xây dựng cơ sở vật chất cho hệ thống cơ sở phát hành xuất bản phẩm tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo;

Hỗ trợ cước vận chuyển xuất bản phẩm phục vụ nhiệm vụ, đối tượng và địa bàn thuộc diện ưu tiên được quy định tại điểm b khoản 2 Điều này;

 Hỗ trợ kinh phí tổ chức hoạt động quảng bá văn hóa, đất nước, con người Việt Nam thông qua xuất bản phẩm; tổ chức triển lãm, hội chợ xuất bản phẩm trong và ngoài nước;

 Ưu đãi tiền thuê đất, thuê nhà thuộc sở hữu nhà nước; lãi suất vay vốn đối với cơ sở phát hành xuất bản phẩm.”

- Đối với xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử, Nhà nước có các chính sách sau đây:

“Hỗ trợ kinh phí đầu tư xây dựng, hiện đại hóa cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ - kỹ thuật tiên tiến cho nhà xuất bản để xuất bản xuất bản phẩm điện tử;

Xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu đặc tả của xuất bản phẩm điện tử nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc tìm kiếm, truy nhập, quản lý và lưu trữ xuất bản phẩm điện tử.”

- Về các chính sách của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản, Luật cũng quy định giao Chính phủ quy định chi tiết phù hợp với từng giai đoạn phát triển của hoạt động xuất bản.

2. Về đối tượng được thành lập nhà xuất bản và loại hình tổ chức của nhà xuất bản (Điều 12)

So với Luật hiện hành, Luật xuất bản năm 2012 quy định cụ thể hơn về đối tượng được thành lập nhà xuất bản tại khoản 1 Điều 11, đó là:

Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và cấp tỉnh;

 Đơn vị sự nghiệp công lập ở trung ương, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và tài liệu khoa học, học thuật.”

 Quy định này vừa có sự kế thừa Luật hiện hành, vừa bổ sung và luật hóa một phần các quy định tại Nghị định số 111/2005/NĐ-CP và Nghị định số 72/2011/NĐ-CP đã được triển khai trong thực tiễn thời gian qua, đồng thời bỏ quy định “tổ chức khác do Chính phủ quy định được thành lập nhà xuất bản” trong Luật hiện hành. Như vậy, với quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật Xuất bản 2012 thì sẽ có sự thay đổi trong thực tiễn đó là “tổ chức xã hội – nghề nghiệp ở Trung ương trực tiếp sáng tạo và công bố tác phẩm được thành lập nhà xuất bản…” (quy định tại Nghị định 72/2011/NĐ-CP) sẽ không được thành lập nhà xuất bản kể từ ngày Luật có hiệu lực thi hành.

Về loại hình tổ chức của nhà xuất bản, khoản 2 Điều 12 Luật Xuất bản năm 2012 quy định gồm 2 loại: (1) đơn vị sự nghiệp công lập (thay cho đơn vị sự nghiệp có thu quy định tại Luật hiện hành) và (2) doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu để bao quát và đầy đủ hơn, bảo đảm tính chủ sở hữu của Nhà nước đối với nhà xuất bản.

3. Về điều kiện thành lập nhà xuất bản (Điều 13)

Nội dung cơ bản của Điều này quy định các điều kiện để được thành lập nhà xuất bản trên cơ sở kế thừa một số quy định của Luật hiện hành và sửa đổi, bổ sung một số điều kiện tại một số khoản như:

“- Có người đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 17 của Luật này để bổ nhiệm tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập và có ít nhất năm biên tập viên cơ hữu;

- Có trụ sở, nguồn tài chính và các điều kiện cần thiết khác bảo đảm hoạt động của nhà xuất bản do Chính phủ quy định;

- Phù hợp với quy hoạch phát triển mạng lưới nhà xuất bản đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.”

4. Về cấp, thu hồi giấy phép thành lập và đình chỉ hoạt động của nhà xuất bản (Điều 14)

Luật Xuất bản năm 2012 đã quy định bổ sung so với Luật hiện hành về việc nhà xuất bản bị đình chỉ hoạt động có thời hạn trong các trường hợp sau đây:

- Sau khi thành lập và trong quá trình hoạt động, cơ quan chủ quản và nhà xuất bản không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều 13 của Luật này;

- Nhà xuất bản thực hiện không đúng nội dung ghi trong giấy phép thành lập nhà xuất bản;

- Nhà xuất bản vi phạm quy định của pháp luật về xuất bản mà bị xử phạt vi phạm hành chính ở mức độ phải đình chỉ hoạt động.

Ở mức độ cao hơn, giấy phép thành lập nhà xuất bản còn bị thu hồi trong các trường hợp sau đây:

- Hết thời hạn bị đình chỉ hoạt động mà không khắc phục được nguyên nhân dẫn đến việc bị đình chỉ;

- Trong thời hạn 06 tháng, kể từ ngày được cấp giấy phép thành lập nhà xuất bản mà cơ quan chủ quản không ra quyết định thành lập nhà xuất bản;

- Trong thời hạn 12 tháng liên tục mà nhà xuất bản không có xuất bản phẩm nộp lưu chiểu;

- Không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại Điều 13 của Luật này và gây hậu quả nghiêm trọng;

- Vi phạm nghiêm trọng các quy định khác của pháp luật.

Và khi giấy phép thành lập nhà xuất bản bị thu hồi trong các trường hợp quy định tại các điểm a, c, d và đ khoản 5 Điều 14 thì cơ quan chủ quản nhà xuất bản phải thực hiện việc giải thể nhà xuất bản theo quy định của pháp luật.

5.  Về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chủ quản (Điều 16)

So với Luật hiện hành, Luật Xuất bản năm 2012 có một số thay đổi trong quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chủ quản nhà xuất bản như sau:

- Một trong các biện pháp để tránh xảy ra tình trạng nhà xuất bản thành lập xong nhưng không hoạt động hoặc hoạt động không hiệu quả, gây lãng phí, dễ để xảy ra vi phạm không đáng có, Luật quy định cơ quan chủ quản phải bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 13 về thành lập nhà xuất bản (ví dụ: cơ quan chủ quản không bảo đảm điều kiện về cấp trụ sở, nguồn tài chính cho nhà xuất bản hoặc bổ nhiệm tổng giám đốc, tổng biên tập mà không đáp ứng các tiêu chuẩn của Luật thì nhà xuất bản sẽ bị đình chỉ hoạt động, bị thu hồi giấy phép và cơ quan chủ quản phải giải thể nhà xuất bản theo các trường hợp được quy định tại Điều 14).

- Bỏ quy định về xét duyệt vào từng bản đăng ký xuất bản của nhà xuất bản nhưng cơ quan chủ quản vẫn phải thực hiện nhiệm vụ định hướng kế hoạch xuất bản hằng năm của nhà xuất bản.

- Sửa đổi quy định về việc cơ quan chủ quản thực hiện bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức đối với chức danh lãnh đạo nhà xuất bản sau khi có văn bản chấp thuận của Bộ Thông tin và Truyền thông (thay cho Luật hiện hành quy định là thỏa thuận).

- Bổ sung quy định đối với cơ quan chủ quản phải giám sát nhà xuất bản thực hiện đúng giấy phép thành lập nhà xuất bản.

6. Về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản và biên tập viên (các Điều 17, 18, 19)

Về các chức danh lãnh đạo nhà xuất bản, Luật quy định rõ đối với nhà xuất bản tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu mà có chức danh chủ tịch hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty thì chủ tịch hội đồng thành viên hoặc chủ tịch công ty phải đồng thời là tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản. Quy định này nhằm khắc phục sự bất cập, cũng như tạo sự thống nhất trong việc áp dụng Luật Doanh nghiệp thời gian qua đối với nhà xuất bản chuyển đổi thành Công ty TNHH một thành viên có thêm chức danh Chủ tịch hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch công ty.

6.1. Về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản

Về tiêu chuẩn, Luật quy định cụ thể hơn, ngoài các tiêu chuẩn chung, đối với tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản phải có ít nhất 03 năm làm một trong các công việc sau đây: biên tập; quản lý xuất bản hoặc báo chí; quản lý tại cơ quan chủ quản nhà xuất bản;

Về nhiệm vụ, quyền hạn, có nhiều quy định mới so với Luật hiện hành theo hướng tăng cường trách nhiệm của tổng giám đốc (giám đốc) một cách cụ thể như:

- Điều hành hoạt động của nhà xuất bản đúng tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ ghi trong giấy phép và quyết định thành lập nhà xuất bản;

- Tổ chức thực hiện việc đăng ký xuất bản với Bộ Thông tin và Truyền thông theo quy định tại Điều 22 của Luật này;

- Tổ chức thẩm định tác phẩm, tài liệu quy định tại Điều 24 của Luật này và tác phẩm, tài liệu khác khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản;

- Ký hợp đồng liên kết xuất bản trước khi ký quyết định xuất bản;

- Ký quyết định xuất bản đối với từng xuất bản phẩm đúng với giấy xác nhận đăng ký xuất bản, kể cả việc in tăng số lượng;

- Ký quyết định phát hành xuất bản phẩm;

- Tổ chức việc lưu trữ hồ sơ biên tập bản thảo và tài liệu có liên quan của từng xuất bản phẩm theo quy định của pháp luật;

- Thực hiện việc sửa chữa, đình chỉ phát hành, thu hồi hoặc tiêu hủy xuất bản phẩm khi có yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

- Thực hiện việc báo cáo khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản;

- Bảo đảm không để lộ, lọt nội dung tác phẩm, tài liệu xuất bản trước khi phát hành làm ảnh hưởng đến quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

6.2. Về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của tổng biên tập

Về tiêu chuẩn, Luật quy định: Đối với tổng biên tập phải có ít nhất 03 năm làm công việc biên tập tại nhà xuất bản hoặc cơ quan báo chí. Ngoài ra, người được bổ nhiệm tổng biên tập còn phải bảo đảm các tiêu chuẩn chung khác được quy định trong Luật.

Về nhiệm vụ quyền hạn, Luật mới cũng đã sửa đổi, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của tổng biên tập nhà xuất bản như:

- Đọc và ký duyệt đối với từng bản thảo để trình tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản ký quyết định xuất bản;

- Không được để lộ, lọt nội dung tác phẩm, tài liệu xuất bản trước khi phát hành làm ảnh hưởng đến quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả.

6.3. Về nhiệm vụ, quyền hạn của biên tập viên

Về tiêu chuẩn, để luật hóa thực tiễn đã phát sinh trong thời gian qua và để chuẩn hóa đội ngũ biên tập viên, Luật quy định: Đối với biên tập viên phải có chứng chỉ hành nghề biên tập. Quy định này không những áp dụng đối với biên tập viên của nhà xuất bản mà còn áp dụng cho những người có đủ điều kiện, tiêu chuẩn mà không phải thuộc thành phần cơ hữu của nhà xuất bản (ví dụ: biên tập viên của đối tác liên kết có bộ phận biên tập hoặc biên tập viên hành nghề độc lập).

Về nhiệm vụ, quyền hạn, ngoài một số quy định được kế thừa từ Luật hiện hành, Luật Xuất bản năm 2012 cũng sửa đổi, bổ sung một số quy định cho cụ thể và đầy đủ hơn đối với biên tập viên như:

- Được từ chối biên tập bản thảo tác phẩm, tài liệu mà nội dung có dấu hiệu vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật này và phải báo cáo với tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập nhà xuất bản bằng văn bản;

- Tham gia các lớp tập huấn định kỳ kiến thức pháp luật về xuất bản, nghiệp vụ biên tập do cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản tổ chức;

- Không được để lộ, lọt nội dung tác phẩm, tài liệu xuất bản trước khi phát hành làm ảnh hưởng đến quyền lợi của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả;

7. Về cấp, thu hồi, cấp lại chứng chỉ hành nghề biên tập (Điều 20)

Luật đã quy định rõ về thủ tục, hồ sơ và thời hạn cấp, cấp lại và trong các trường hợp sau đây thì chứng chỉ hành nghề biên tập bị thu hồi:

- Biên tập viên có xuất bản phẩm do mình biên tập bị cấm lưu hành, thu hồi, tịch thu, tiêu hủy;

- Biên tập viên trong 01 năm có hai xuất bản phẩm hoặc trong 02 năm liên tục có xuất bản phẩm do mình biên tập sai phạm về nội dung mà bị buộc phải sửa chữa mới được phát hành;

- Biên tập viên bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án.

- Biên tập viên có chứng chỉ hành nghề biên tập bị thu hồi thì sau 02 năm mới được xét cấp lại, trừ trường hợp biên tập viên bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật của tòa án về các tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, các tội xâm phạm an ninh quốc gia.

8. Về đăng ký xuất bản và xác nhận đăng ký xuất bản (Điều 22)

Thời gian qua việc đăng ký kế hoạch xuất bản đã làm nảy sinh những bất cập như: các nhà xuất bản đăng ký nhiều, nhưng thực hiện ít, đăng ký thiếu thực chất, chỉ mang tính “xếp chỗ”, gây tốn kém về thời gian, kinh phí cho cả nhà xuất bản và cơ quan quản lý nhà nước trong việc giải quyết việc xác nhận đăng ký kế hoạch, đồng thời còn tạo ra kẽ hở để cho không ít trường hợp lách luật (“đội mũ”) xuất bản không đúng với nội dung đăng ký và được xác nhận đăng ký.

Vì vậy, để khắc phục tình trạng này, Luật quy định về đăng ký xuất bản (thay cho quy định về đăng ký kế hoạch xuất bản, đồng thời cơ quan chủ quản nhà xuất bản cũng không còn phải xét duyệt kế hoạch xuất bản) đơn giản, nhanh chóng hơn về thủ tục. Qua đó tạo điều kiện tốt hơn cho công tác quản lý, cũng như tiết kiệm được chi phí, thời gian cho nhà xuất bản và cơ quan quản lý nhà nước, đồng thời đưa quy định về đăng ký xuất bản đi vào thực chất hơn.

9. Về liên kết trong hoạt động xuất bản (Điều 23)

Thời gian qua, ngoài những kết quả tích cực do hoạt động liên kết xuất bản đem lại, cũng có không ít những tiêu cực nảy sinh và đa số các sai phạm xảy ra trong hoạt động xuất bản đều từ khâu liên kết. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần phải tăng cường quản lý chặt chẽ khâu liên kết và phải xác định rõ trách nhiệm của các thủ thể tham gia liên kết xuất bản, cụ thể là nhà xuất bản và các đối tác liên kết, khắc phục việc chỉ có nhà xuất bản chịu trách nhiệm chính còn đối tác liên kết thì “liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật” như quy định tại Luật hiện hành.

Do đó, Điều 23 Luật Xuất bản năm 2012 đã quy định cụ thể hơn về điều kiện liên kết, trách nhiệm của nhà xuất bản và đối tác liên kết, cho phép có thêm hình thức liên kết biên tập sơ bộ bản thảo (tức là luật hóa công đoạn này đã phát sinh trong thực tiễn thời gian qua). Luật cũng đồng thời quy định đối với tác phẩm, tài liệu có nội dung về lý luận chính trị, lịch sử, tôn giáo, chủ quyền quốc gia, hồi ký thì nhà xuất bản không được liên kết biên tập sơ bộ bản thảo.

Luật cũng phân định cụ thể trách nhiệm của từng chủ thể tham gia liên kết  trong hoạt động xuất bản như:

- Đối với tổng giám đốc (giám đốc), ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tại khoản 1 Điều 18, còn phải có trách nhiệm: (1) thực hiện đúng hợp đồng liên kết xuất bản; (2) bảo đảm nội dung xuất bản phẩm liên kết phù hợp với tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của nhà xuất bản; (3) tổ chức biên tập hoàn chỉnh bản thảo tác phẩm, tài liệu do đối tác liên kết biên tập sơ bộ; (4) thu hồi quyết định xuất bản khi đối tác liên kết vi phạm hợp đồng liên kết;

- Đối với tổng biên tập, ngoài việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn tại khoản 2 Điều 18 còn phải có trách nhiệm: Giúp tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản tổ chức biên tập hoàn chỉnh bản thảo tác phẩm, tài liệu do đối tác liên kết biên tập sơ bộ; đọc duyệt bản thảo tác phẩm, tài liệu liên kết xuất bản;

- Đối với đối tác liên kết: Luật quy định cụ thể các trách nhiệm phải thực hiện như: (1) Thực hiện đúng hợp đồng liên kết xuất bản; (2) Thực hiện đúng nội dung bản thảo đã được tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản ký duyệt để in hoặc phát hành trên phương tiện điện tử; (3) Ghi tên, địa chỉ trên xuất bản phẩm theo quy định tại điểm b khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 27 của Luật này; (4) Nộp xuất bản phẩm liên kết để nhà xuất bản nộp lưu chiểu; (5) Chỉ phát hành xuất bản phẩm liên kết sau khi tổng giám đốc (giám đốc) nhà xuất bản ký quyết định phát hành; (6)Thực hiện việc sửa chữa, đình chỉ phát hành, thu hồi hoặc tiêu hủy xuất bản phẩm khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và (7) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động liên kết xuất bản và xuất bản phẩm liên kết.

10. Về thông tin ghi trên xuất bản phẩm (Điều 27)

Ngoài các quy định được kế thừa của Luật hiện hành, Luật mới cũng đã bổ sung quy định về thông tin phải ghi trên xuất bản phẩm điện tử và thông tin về mã số sách tiêu chuẩn quốc tế (ISBN). Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc chuẩn hóa các tiêu chí của xuất bản phẩm nói chung và đặc biệt là sách theo thông lệ quốc tế.

11. Về cấp, thu hồi giấy phép hoạt động in xuất bản phẩm (Điều 32)

Hoạt động in là một trong những ngành nghề kinh doanh có điều kiện, Luật đã bổ sung quy định để cấp giấy phép hoạt động in là phải bảo đảm các điều kiện về vệ sinh môi trường theo quy định của pháp luật; quy định cụ thể hơn về hồ sơ đề nghị cấp giấy phép hoạt động in xuất bản phẩm. Đồng thời, Luật cũng quy định các trường hợp giấy phép hoạt động in bị thu hồi khi: “a) Cơ sở in xuất bản phẩm không đáp ứng đủ các điều kiện quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này trong quá trình hoạt động; b) Cơ sở in có các thay đổi quy định tại khoản 6 Điều này mà không làm thủ tục đổi giấy phép.”

12. Về điều kiện nhận in xuất bản phẩm và trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở in xuất bản phẩm (Điều 33 và Điều 35)

Để khắc phục sự thiếu chặt chẽ và chưa cụ thể trong việc nhận in xuất bản phẩm, Luật quy định việc nhận in xuất bản phẩm phải có hợp đồng giữa cơ sở in với nhà xuất bản hoặc cơ quan, tổ chức được cấp giấy phép xuất bản tài liệu không kinh doanh (Điều 33).

Đối với người đứng đầu cơ sở in xuất bản phẩm phải có trách nhiệm báo cáo về hoạt động in xuất bản phẩm của cơ sở in theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, phải tham gia các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý hoạt động in xuất bản phẩm do cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản tổ chức và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động in xuất bản phẩm của cơ sở in (Điều 35).

13. Về các nội dung và hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản (Điều 10)

Ngoài việc kế thừa các quy định của Luật hiện hành, Luật Xuất bản năm 2012 cũng đã bổ sung quy định đối với các hành vi bị cấm tại Điều 10 như:

- Xuất bản mà không đăng ký, không có quyết định xuất bản hoặc không có giấy phép xuất bản;

- Thay đổi, làm sai lệch nội dung bản thảo đã được ký duyệt hoặc bản thảo tài liệu không kinh doanh có dấu của cơ quan cấp giấy phép xuất bản;

- In lậu, in giả, in nối bản trái phép xuất bản phẩm;

- Phát hành xuất bản phẩm không có nguồn gốc hợp pháp hoặc chưa nộp lưu chiểu;

- Xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm đã bị đình chỉ phát hành, thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành, tiêu hủy hoặc nhập khẩu trái phép;

- Các hành vi bị cấm khác theo quy định của pháp luật.

 Đây chính là cơ sở pháp lý quan trọng để xác định và áp dụng các chế tài xử lý về hành chính, hình sự đối với các hành vi vi phạm này trong quá trình thực thi Luật cũng như Luật Thanh tra năm 2010, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 với mức xử phạt tiền tối đa lên tới 200 triệu đồng đối với tổ chức và 100 triệu đồng đối với cá nhân (mức xử phạt hiện hành tối đa là 40 triệu đồng) và để có thêm căn cứ sửa đổi Bộ luật Hình sự.

14. Về đăng ký hoạt động cơ sở phát hành xuất bản phẩm (Điều 37)

Sau năm 2004, các cơ sở phát hành đã có sự phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn chưa có khung pháp lý chuyên ngành điều chỉnh. Qua đánh giá thực tiễn cho thấy đã có nhiều cấp, nhiều ngành nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác phát hành xuất bản phẩm, thậm chí quan niệm phát hành xuất bản phẩm chỉ là hoạt động kinh doanh đơn thuần như các ngành nghề khác, mặc dù lĩnh vực phát hành xuất bản phẩm vẫn thuộc phạm trù tổng thể của hoạt động xuất bản bao gồm 3 lĩnh vực: xuất bản, in, phát hành được ghi rõ trong phạm vi điều chỉnh của Luật. Thêm vào đó, do không được quản lý bằng Luật chuyên ngành nên đã xuất hiện nhiều cơ sở phát hành xuất bản phẩm vi phạm pháp luật, ngang nhiên tiêu thụ sách in lậu, in nối bản trái phép, sách có nội dung xấu.

Khắc phục tình trạng này, Luật quy định cụ thể về điều kiện hoạt động và trách nhiệm của người đứng đầu cơ sở phát hành xuất bản phẩm. Trước khi hoạt động, cơ sở phát hành là doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập phải đăng ký hoạt động phát hành xuất bản phẩm với cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản theo quy định của Luật.

15. Về xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử (Chương V)

Trước sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin và truyền thông, quá trình xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử còn có nhiều thay đổi, khó dự báo trước. Mặt khác, trong hoạt động xuất bản điện tử, xuất bản phẩm không cần phải in (nhân bản) mà có thể phát hành ngay trên phương tiện điện tử hoặc việc in (nhân bản) diễn ra sau khi xuất bản phẩm điện tử được phát hành (ví dụ: tải từ Internet để in). Do đó, Luật Xuất bản năm 2012 cơ bản tập trung quy định tại Chương V những vấn đề có tính nguyên tắc, bao quát đến các đối tượng, hình thức, điều kiện, trách nhiệm và quyền hạn của các chủ thể tham gia thực hiện xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử, đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết thi hành để bảo đảm tính linh hoạt trong việc quản lý hoạt động xuất bản điện tử phù hợp với từng giai đoạn phát triển của công nghệ. Nội dung chủ yếu của Chương này quy định nhà xuất bản và tổ chức, cá nhân phát hành xuất bản phẩm điện tử phải:

- Bảo đảm các điều kiện về năng lực thiết bị, công nghệ để thực hiện xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử và để ngăn chặn việc sao chép, can thiệp bất hợp pháp vào nội dung xuất bản phẩm điện tử nhằm quản lý hoạt động này một cách hiệu quả hơn.

- Bảo đảm xuất bản phẩm đã được xuất bản, in, phát hành hợp pháp được phát hành trên các phương tiện điện tử.

- Tuân thủ cách thức thực hiện đối với tác phẩm, tài liệu xuất bản lần đầu theo phương thức xuất bản điện tử phải thông qua nhà xuất bản hoặc phải được cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản cấp giấy phép xuất bản theo quy định tại Điều 25 của Luật này.

- Việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử chỉ được thực hiện sau khi có văn bản chấp thuận của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ.

- Việc chuyển xuất bản phẩm điện tử sang xuất bản phẩm in để phổ biến tới nhiều người phải tuân thủ các quy định của Luật này và pháp luật về sở hữu trí tuệ.

Ngoài ra, Chương này cũng quy định về nộp lưu chiểu xuất bản phẩm điện tử và nộp cho Thư viện Quốc gia; quảng cáo trên xuất bản phẩm điện tử; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử; nhập khẩu xuất bản phẩm điện tử.

16. Một số quy định khác

Ngoài các quy định mới đáng chú ý nêu trên, còn nhiều quy định khác được sửa đổi, bổ sung trong Luật Xuất bản năm 2012 như: quy định về nộp lưu chiểu, quảng cáo trên xuất bản phẩm, về nhập khẩu xuất bản phẩm...

V. TỔ CHỨC TRIỂN KHAI THI HÀNH LUẬT XUẤT BẢN NĂM 2012

Để triển khai Luật Xuất bản năm 2012, các bộ, ngành, địa phương và cơ quan liên quan cần tập trung thực hiện một số công việc sau:

1. Tuyên truyền, phổ biến Luật Xuất bản năm 2012

- Biên soạn, xuất bản bộ tài liệu giới thiệu về Luật Xuất bản.

- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao trách nhiệm, nhận thức của nhân dân và nhất là đối với đội ngũ cán bộ làm công tác xuất bản, in, phát hành xuất bản phẩm.

- Tổ chức các hội nghị quán triệt triển khai Luật, đặc biệt là các nội dung mới so với Luật hiện hành cũng như phục vụ tích cực cho việc triển khai Luật Xuất bản.

- Xây dựng chuyên trang, chuyên mục về Luật Xuất bản và tổ chức thực hiện Luật trên để cung cấp thông tin đầy đủ, toàn diện về việc triển khai Luật, đồng thời liên tục cập nhật các hoạt động mới trong quá trình triển khai Luật.

- Nghiên cứu, xây dựng một số chuyên đề về Luật đăng trên các tạp chí, báo để tuyên truyền, phổ biến các nội dung mang tính chuyên sâu.

2. Tổ chức các lớp tập huấn chuyên sâu về Luật Xuất bản năm 2012

Nghiên cứu, biên soạn, in và phát hành sách và tài liệu khác phục vụ công tác tập huấn chuyên sâu về Luật Xuất bản năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành cho cán bộ làm công tác quản lý, cán bộ trực tiếp xử lý vi phạm hành chính, bảo đảm khi Luật có hiệu lực thi hành sẽ được áp dụng chính xác, thống nhất trên toàn quốc.

3. Rà soát, hệ thống hóa và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về xuất bản

Các bộ, ngành khẩn trương tổ chức rà soát văn bản quy phạm pháp luật, lập danh mục văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ để phù hợp với Luật Xuất bản năm 2012.

 Để bảo đảm Luật Xuất bản năm 2012 được thực thi ngay khi có hiệu lực, Chính phủ cần chỉ đạo, phân công trách nhiệm xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Xuất bản (Nghị định của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật, Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xuất bản và các thông tư, thông tư liên tịch để hướng dẫn thi hành Luật…).

4. Xây dựng các đề án triển khai thi hành Luật Xuất bản năm 2012

Để triển khai các quy định mới của Luật Xuất bản năm 2012 liên quan tới công tác quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản, bên cạnh việc xây dựng các Nghị định, Chính phủ cần xây dựng các Đề án để triển khai thi hành Luật.



 

 

  • Tiếc
    16/04/2024
    Một ông nổi tiếng keo kiệt phải cấp cứu vì ăn nhầm nấm độc. Sau khi được bác sỹ rửa ruột, tiêm thuốc, ông ta hồi tỉnh lại. Trước khi cho xuất viện, báo sỹ hỏi:
  • Giải đáp
    16/04/2024
    Bà vợ hỏi ông chồng: - Tại sao người ta chọn Giờ Trái đất vào ngày thứ bảy cuối cùng của tháng 3 hằng năm ông nhỉ?
  • Món ngon
    16/04/2024
    Hai bợp nhậu ngồi tám chuyện: - Đố ông, trong các món mồi nhậu, con gì ngon nhất?
Số lượt truy cập: 492855