16/05/2013 15:24        

Đề cương giới thiệu Luật Hợp tác xã năm 2012

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ

VỤ HỢP TÁC XÃ

---------------

        

 

BỘ TƯ PHÁP

VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

-----------------------------------

 

 

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2012

 

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

1. Một số hạn chế cơ bản của Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003

Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 (được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2004) cùng với các văn bản hướng dẫn (Nghị định 177/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 10 năm 2004, Nghị định 77/2005/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2005, Nghị định 87/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005, Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005 và các văn bản khác có liên quan) đã thể chế hóa một bước quan điểm mới của Nghị quyết số 13/NQ-TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương (Khóa IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.

Sau 6 năm thực hiện, nhìn chung Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 đã đạt được một số kết quả, tạo thuận lợi hơn cho các tổ chức kinh tế tập thể phát triển so với khung pháp luật thời kỳ trước đây, có đóng góp đáng kể trong việc phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, góp phần vào việc hoàn thiện quan hệ sản xuất, và vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước cụ thể là:

- Thúc đẩy việc tổ chức lại và khuyến khích thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tiếp tục đơn giản hoá và minh bạch hoá thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

- Tạo điều kiện cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được hình thành dựa trên sở hữu của xã viên và sở hữu tập thể, thúc đẩy xã viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cùng góp vốn, góp sức, cùng có lợi; khẳng định nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; phân định rõ hơn chức năng quản lý của ban quản trị và chức năng điều hành của chủ nhiệm hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; khẳng định sự bình đẳng của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác.

- Quy định cụ thể hơn về các chính sách hỗ trợ phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phù hợp với các luật chuyên ngành hiện hành; tăng cường chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như: hỗ trợ sáng lập viên chuẩn bị thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hỗ trợ ứng dụng đổi mới công nghệ, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng và ưu đãi đầu tư.

Tuy nhiên, Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã còn có một số bất cập cần phải sửa đổi, bổ sung nhằm thúc đẩy phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã một cách vững chắc hơn.

a) Luật chưa thể hiện rõ bản chất tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, sự khác biệt về bản chất giữa tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với doanh nghiệp và với tổ chức xã hội -  từ thiện; chưa quan tâm thích đáng nội hàm “hợp tác” của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; chưa làm thật rõ lợi ích và vai trò người chủ của xã viên khi tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, mục tiêu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm, lợi ích của xã viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

- Về bản chất tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã:

+ Về mục tiêu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và lợi ích của xã viên: Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 quy định chưa thật rõ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải lấy lợi ích của xã viên là mục tiêu cho hoạt động và phát triển của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chưa thể hiện thật rõ lợi ích của xã viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khi tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là được hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cung cấp sản phẩm, dịch vụ hoặc tạo việc làm có hiệu quả hơn so với xã viên đơn lẻ tự thực  hiện hoặc không thực hiện được; vai trò người chủ của xã viên trong việc quyết định các vấn đề cơ bản của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, như: xác định mục tiêu, tổ chức hoạt động, quản lý và điều hành hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, còn mờ nhạt.

Luật quy định: hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân “có nhu cầu, lợi ích chung…” lập ra; các xã viên “giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống”, nhưng không quy định rõ mục tiêu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là phục vụ cộng đồng xã viên hay thị trường đại chúng, tức không quy định rõ việc hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải đáp ứng “nhu cầu, lợi ích chung” đó của xã viên; và do vậy, chưa làm rõ sự khác biệt về mục tiêu giữa tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và tổ chức doanh nghiệp.

Luật giải thích khái niệm dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đối với xã viên và mức độ sử dụng dịch vụ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhưng không quy định nghĩa vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải cung cấp sản phẩm, dịch vụ, trước hết nhằm phục vụ hoạt động kinh tế, đời sống của xã viên. Luật chưa thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm của xã viên trong việc góp vốn và chia sẻ rủi ro; thực tế vốn góp của xã viên còn mang tính hình thức, khi làm ăn thua lỗ, xã viên không liên đới chịu trách nhiệm.

+ Về mối quan hệ giữa nghĩa vụ, trách nhiệm của xã viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã:

Quy định của Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 về việc xã viên “cùng góp vốn, góp sức” là chưa rõ ràng, có thể dẫn đến cách hiểu khác nhau:

+ Các xã viên chỉ “góp vốn” mà không “góp sức“ - khi đó hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trở thành doanh nghiệp và xã viên thực chất chỉ là người góp vốn, cổ đông của doanh nghiệp, được chia lãi theo vốn góp.

+ Hoặc ngược lại: chỉ “góp sức” mà không “góp vốn” - khi đó xã viên về thực chất chỉ là người lao động làm thuê trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tương tự như người lao động trong doanh nghiệp nếu được trả lương; hoặc là hoạt động từ thiện cho tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nếu tự nguyện và không được trả lương.

Với hai cách hiểu nêu trên, quy định pháp luật về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hiện hành chưa làm rõ được bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, dẫn đến cách hiểu phổ biến hiện nay: tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là doanh nghiệp (theo quy định của Luật Doanh nghiệp).

+ Hoặc xã viên phải “góp vốn” đi đôi với “góp sức”, khi đó xã viên vừa là người góp vốn, trở thành chủ sở hữu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã vừa là người lao động trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (gọi là hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người lao động[1]), đây là điểm khác biệt về bản chất của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã so với mô hình tổ chức doanh nghiệp (theo Luật doanh nghiệp). Ở nước ta đã có xu hướng rõ rệt phát triển loại hình tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã này, chủ yếu là trong lĩnh vực xây dựng[2].

+ Quy định về “góp vốn”, “góp sức” của xã viên vào hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không phải là đặc trưng riêng có của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, không thể hiện quan hệ mang tính bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; thành viên của các tổ chức khác (ví dụ: doanh nghiệp) cũng “góp vốn”, “góp sức” cho tổ chức mình; mặt khác, trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường, “sức” đóng góp có thể được quy thành tiền, khi đó “góp sức” thực chất cũng là “góp vốn”; “góp sức” cũng có thể được hiểu là làm thuê để được trả lương, trả công.

Do quy định pháp luật về bản chất hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chưa rõ, nên quy định về đối tượng tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là công chức, pháp nhân chưa khả thi. Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 mở rộng đối tượng tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đối với cán bộ công chức, pháp nhân, nhưng Pháp lệnh Cán bộ, công chức chỉ cho phép cán bộ, công chức có thể góp vốn mà không được “góp sức” với tư cách là người lao động trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Luật cho phép pháp nhân được tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, nhưng pháp nhân không thể “góp sức’’ vào hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, mà chỉ có thể góp vốn. Thực tế, chưa có hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập với thành viên là các pháp nhân vừa góp vốn vừa góp sức.

Quy định “hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp” trong Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 là chưa chặc chẽ về mặt pháp luật, chưa xác định được rõ địa vị pháp lý, bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Quy định như vậy có thể được hiểu là hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải có bản chất của tổ chức doanh nghiệp, từ đó dẫn đến hai mâu thuẫn là: (1) với tư cách là một loại hình doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải tuân thủ các quy định của Luật Doanh nghiệp, hoạt động và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác, nhưng Điều 3 Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và Nghị định số 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 quy định nhiều chính sách hỗ trợ riêng cho tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mà doanh nghiệp không được thụ hưởng; (2) đã là doanh nghiệp thì phải hướng vào mục tiêu lợi nhuận, khác với mục tiêu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là hướng vào đáp ứng nhu cầu chung một cách hiệu quả cho thành viên cả về kinh tế, văn hóa và xã hội, đồng thời phải hoạt động có lãi.

Do chưa quy định rõ bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là phục vụ thành viên, nên bốn nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được quy định tại Điều 4 Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 chưa thể hiện đầy đủ bản chất và nguyên tắc của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phù hợp với thông lệ quốc tế, đồng thời chưa có hiệu lực cao trong thực tế, cụ thể: chưa quy định nguyên tắc “kết nạp rộng rãi thành viên” đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhằm thu hút ngày càng nhiều xã viên tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã[3]; không quy định xã viên phải sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhằm thể hiện trách nhiệm, ràng buộc về kinh tế của xã viên đối với sự tồn tại và phát triển của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; quy định nguyên tắc hợp tác giữa các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cũng chưa rõ ràng. Nguyên tắc quản lý dân chủ trong tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chưa thực hiện tốt và hiệu quả. Thực tế, có rất ít hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp xã viên mới, hoặc không kết nạp thêm xã viên mà huy động xã viên cũ tăng vốn góp, thậm chí “đóng cửa” không kết nạp xã viên mới, nhiều hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chưa phát huy tinh thần dân chủ đối với mọi xã viên trong quản lý, hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Theo kết quả tổng điều tra hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trên toàn quốc, số xã viên tăng thêm hiện nay chỉ khoảng 843 ngàn so với số xã viên tại thời điểm chuyển đổi hoặc thành lập, trong đó có số lượng không nhỏ xã viên mang tính hình thức.

+ Về sở hữu tập thể và tài sản chung không chia và tổ chức quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Luật quy định chưa rõ ràng về sở hữu tập thể và tài sản chung không chia, cụ thể là: vốn và tài sản chung của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được hình thành từ các nguồn vốn và công sức của xã viên, quà biếu, tặng của các tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước, khi giải thể do đại hội xã viên quyết định. Như vậy, một mặt chưa chế định rõ tài sản chung không chia, sở hữu chung tập thể; mặt khác, có thể tạo kẽ hở lợi dụng thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã để tranh thủ các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước dành riêng cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Luật hiện hành chưa tách bạch rõ ràng chức năng quản lý của chủ sở hữu và chức năng điều hành hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; cho phép hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có thể tổ chức hai bộ máy hoặc một bộ máy, bao gồm cả chức năng quản lý và chức năng điều hành, nhưng không tách bạch rạch ròi hai chức năng này; đặt bộ máy điều hành ngang hàng với bộ máy quản lý của chủ sở hữu là không phù hợp. Thực tế, số hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tổ chức một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành chiếm phần lớn số hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã[4], chưa thể hiện rõ quyền làm chủ thực sự của xã viên.

+ Về quan hệ phân phối trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã:

Luật quy định chưa rõ ràng về quan hệ phân phối, chưa gắn với bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và chưa phù hợp với quy định pháp luật hiện hành, cụ thể là: không quy định về việc lãi trước hết phải phân phối cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ, mà là “Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế, trích lập các quỹ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, lãi được chia cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên và phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã”, nên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ưu tiên chi lãi cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp, “phần còn lại” của lãi có thể rất thấp, hoặc không còn để có thể phân phối theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Trong khi đó, theo bản chất đích thực của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, việc xã viên sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là đặc biệt quan trọng, góp phần vừa tạo nên thặng dư của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã vừa mang lợi lại cho mình, bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Thực tế, hầu hết hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chia lãi theo tỷ lệ vốn góp, mà không chia lãi theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã[5]; Quy định như vậy khuyến khích hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trở thành doanh nghiệp, theo đó, xã viên chỉ còn là người góp vốn và được chia lãi theo vốn góp, không khuyến khích hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hướng vào cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã viên; không khuyến khích xã viên sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, không khuyến khích kết nạp thêm xã viên mới, mà khuyến khích xã viên tăng vốn, từ đó dần định hướng tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chuyển sang bản chất tổ chức doanh nghiệp với việc chia lãi chủ yếu theo vốn góp.

Việc Luật quy định chia lãi theo công sức đóng góp sau khi thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, trích lập các quỹ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã còn trái với quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, theo đó chi trả công sức lao động thực chất là chi phí tiền lương, tiền công được hạch toán vào chi phí sản xuất - kinh doanh.

-  Về tổ chức liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã:

Quy định pháp luật về tổ chức liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã còn chưa rõ ràng và chưa khả thi, theo đó liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động theo nguyên tắc hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, có nghĩa là các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải “góp vốn, góp sức” vào liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã để tạo thành một đơn vị kinh tế tự chủ tương tự như tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, và do vậy vấp phải những bất cập tương tự như đối với tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Với tư cách là một pháp nhân, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chỉ có thể góp vốn, không thể góp sức vào liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Luật cũng chưa quy định rõ về mối quan hệ giữa liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên, xã viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên; quyền lợi, nghĩa vụ của các thành viên và cơ chế tổ chức, hoạt động của liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Thực chất, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã - tức thành viên thuần nhất là pháp nhân hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

b) Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 chưa làm rõ tính chất phục vụ xã viên của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo tinh thần Nghị quyết số 13 Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã đề ra: “Kinh tế tập thể với hình thức phổ biến là tổ hợp tác và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; trong lĩnh vực nông nghiệp trước hết tập trung làm các khâu dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của hộ thành viên”. 

Theo chủ trương trên, các xã viên hợp tác với nhau thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhằm được cung cấp một cách hiệu quả hơn các sản phẩm, dịch vụ chung, như: dịch vụ đầu vào, đầu ra, v.v., phục vụ sản xuất, kinh doanh của của hộ kinh tế xã viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tức nêu rõ bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là phục vụ xã viên, kinh tế hộ xã viên. Bản chất này không chỉ phù hợp đối với tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn là bản chất chung của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, và phù hợp với kinh nghiệm phổ biến trên thế giới.

Kết quả khảo sát hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2008[6] cho thấy, phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đang có những vận động mới phù hợp với chủ trương tại Nghị quyết và phù hợp với kinh nghiệm phổ biến trên thế giới nhưng vượt ra khỏi khung khổ pháp luật hiện hành, trở thành một xu thế mới nổi bật của phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong những năm gần đây (được giải trình cụ thể ở mục 3).

Quy định của Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 chưa làm thật rõ loại hình tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người lao động, tức xã viên “vừa góp vốn vừa góp sức”, là loại hình đặc biệt của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Theo đó, mục đích của xã viên thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là nhằm tạo việc làm và thu nhập cho chính mình; xã viên được hưởng lợi ích từ việc trả lương và được chia lãi theo mức độ vốn góp, vừa là chủ sở hữu vừa là người lao động trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Việc chưa làm rõ bản chất tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và loại hình tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người lao động với tư cách là một loại hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đặc biệt là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiều hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã rất lúng túng trong tổ chức, xây dựng phương án sản xuất - kinh doanh và hoạt động. Xã viên nhiều hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chỉ mang tính hình thức, “đối phó” với quy định pháp luật hiện hành. Ví dụ, trong lĩnh vực giao thông vận tải, để đối phó với quy định xã viên phải “góp vốn và góp sức”, (ví dụ: phương tiện vận tải) của xã viên được đăng ký là tài sản hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhưng vẫn được xã viên trực tiếp quản lý và sử dụng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh cá nhân của mình, thực chất vẫn thuộc sở hữu cá nhân của xã viên. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bề ngoài là thực hiện sản xuất kinh doanh chung, nhưng thực chất xã viên vẫn sản xuất - kinh doanh cá thể độc lập.

c) Quy định về quản lý nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã còn thiếu, hoặc chưa đủ rõ, cụ thể, hoặc không còn thích hợp

- Còn thiếu các quy định về: quyền và nhiệm vụ của các cơ quan chức năng nhà nước đối với việc thực hiện các quy định pháp luật về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; hướng dẫn và cân đối nguồn lực phục vụ cho công tác tuyên truyền thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

- Một số quy định có tính khả thi thấp, như: quy định trường hợp nguồn tài chính còn lại của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không đủ để thực hiện việc giải thể bắt buộc thì sử dụng nguồn tài chính từ quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tại địa phương để thực hiện giải thể bắt buộc, nhưng quỹ này chưa được thành lập ở hầu hết các địa phương.

d) Hạn chế về chế tài xử lý vi phạm pháp luật

Quy định pháp luật về trách nhiệm giám sát, kiểm tra thi hành Luật chưa rõ. Luật chưa quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, cá nhân trong việc giám sát, kiểm tra thi hành Luật. Tổ chức triển khai việc giám sát, kiểm tra thi hành Luật bị buông lỏng.

Chưa có chế tài cụ thể và đủ sức răn đe để pháp luật có hiệu lực, để tình trạng vi phạm pháp luật kéo dài trong hoạt động của cơ quan nhà nước và các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, như: kiểm tra hoạt động của các cơ quan đăng ký kinh doanh; chế tài đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã đăng ký kinh doanh trước ngày Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 có hiệu lực thi hành nhưng không sửa đổi, bổ sung điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đăng ký điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã sửa đổi mà nội dung điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã sửa đổi không phù hợp với quy định của mẫu hướng dẫn điều lệ đã được ban hành; cơ quan đăng ký kinh doanh không có văn bản yêu cầu tổ chức đại hội xã viên bất thường khi xã viên gửi đơn đề nghị can thiệp theo quy định của pháp luật.

đ) Chưa có các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phù hợp với bản chất của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và phù hợp với hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy chưa góp phần thúc đẩy phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã một cách bền vững.

Tuy nhiên, kết quả điều tra toàn diện hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trên cả nước năm 2008 và khảo sát thực tiễn tại 58 tỉnh, thành phố, nghiên cứu chủ trương của Đảng về kinh tế tập thể, Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 và các văn bản có liên quan cho thấy một số vấn đề nổi bật như sau:

2. Tồn tại trong thực tiễn phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Bên cạnh một số kết quả đạt được, khu vực hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã còn có một số tồn tại chủ yếu, như:

-   Chưa thoát ra khỏi yếu kém kéo dài về: trình độ công nghệ lạc hậu, năng lực đội ngũ cán bộ quản lý yếu, chất lượng, hiệu quả hoạt động nói chung thấp;

- Số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động giảm dần trong những năm gần đây: từ 14.500 vào cuối năm 2007, giảm xuống chỉ còn 13.574  hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã vào năm 2011. Còn có tới 3.744 (20,83%) hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không hoạt động tại thời điểm cuối  năm 2007, đến nay con số này có thể tăng lên. Nhiều hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã lúng túng trong tổ chức hoạt động, hoặc hoạt động hình thức, kém hiệu quả; tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã chưa hấp dẫn nhân dân, pháp nhân tham gia;

-   Đóng góp vào GDP của kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã giảm sút liên tục trong 15 năm qua (từ gần 11% năm 1995 xuống còn 5,22% năm 2011); tốc độ tăng trưởng của kinh tế tập thể rất thấp, chỉ bằng khoảng ½ tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế và thấp nhất so với các thành phần kinh tế khác. Dự báo trong những năm tới, đóng góp vào GDP của kinh tế tập thể có thể sẽ tiếp tục giảm và tốc độ tăng trưởng cũng sẽ ở mức rất thấp, do vậy không những không đạt mà có thể ngày càng xa mục tiêu Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX đã đề ra.

3. Xu hướng phát triển mới của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Thực tế cho thấy, tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có xu hướng phát triển mới vượt ra ngoài sự điều chỉnh của khung pháp luật hiện hành về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Kết quả khảo sát toàn diện hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2008 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì thực hiện chỉ ra hai xu hướng rõ rệt là:

- Xu hướng nổi bật của phát triển tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phục vụ xã viên, bao gồm cả tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người lao động, cụ thể là: tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phục vụ xã viên phát triển phổ biến ở lĩnh vực nông nghiệp (năm 2007 có 6.631 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với khoảng 5,3 triệu xã viên, cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho xã viên chiếm gần 68% tổng doanh thu), trong lĩnh vực tín dụng (năm 2007 có 989 quỹ tín dụng nhân dân với khoảng gần 1 triệu xã viên, dư nợ cho xã viên vay khoảng 60% tổng dư nợ); trong lĩnh vực thương mại (năm 2007 có 767 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với khoảng 160 ngàn xã viên, doanh thu cho xã viên chiếm khoảng 50% tổng doanh thu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã); trong lĩnh vực giao thông vận tải, hình thức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phổ biến là hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phục vụ xã viên.

Tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người lao động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng (năm 2007 có 336 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong tổng số 14.500 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, với 4.823 xã viên tạo việc làm cho 3.351 xã viên - chiếm 69,5% tổng số lao động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã). Trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo có Trường đại học quản lý kinh doanh Hà nội với trên 300 cán bộ công nhân viên của Trường đều là người góp vốn - đồng là chủ sở hữu của Trường. Một số hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã dịch vụ trong trường học, trên lĩnh vực vệ sinh môi trường, sản xuất vật liệu xây dựng, trong lĩnh vực thương mại và giao thông vận tải cũng là hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người lao động.  Đây là loại hình tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với xã viên “vừa góp vốn vừa góp sức”.

Như vậy, số lượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phục vụ xã viên (bao gồm hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người lao động) chiếm đa số (khoảng 68%) trong tổng số hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động, có đặc điểm chung xuyên suốt là đều có hoạt động tạo ra sản phẩm, dịch vụ cung ứng cho xã viên, làm nên bản chất riêng có của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Nếu các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã này không có đặc trưng phục vụ xã viên của mình thì hoặc không thể tồn tại, hoặc là doanh nghiệp.

Điều đặc biệt quan trọng là các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã này đã tác động tích cực vào hoạt động kinh tế của xã viên, rõ nét nhất là giảm chi phí sản xuất, kinh doanh và nâng cao chất lượng sản phẩm của hoạt động kinh tế xã viên, nhưng tác động này chưa được chú ý, đánh giá đúng mức và chưa được tính toán vào đóng góp GDP chung của kinh tế tập thể, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Chính sách đặc thù ưu đãi, hỗ trợ khuyến khích loại hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã này cũng chưa được nghiên cứu, xây dựng và thực hiện một cách đầy đủ, nhất là ưu đãi về thuế đối với thu nhập phát sinh từ giao dịch giữa hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với xã viên và hỗ trợ cho cộng đồng lớn xã viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, nhất là xã viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp.

Bản chất tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo xu hướng này có đặc trưng riêng khác hẳn với tổ chức doanh nghiệp, phù hợp với lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, với chủ trương của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, nhưng chưa được thể hiện thật rõ trong khung pháp luật và chính sách hiện hành.

Theo báo cáo của 53 tỉnh, thành phố về tổng kết kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2006 – 2010, tỷ lệ tổng giá trị dịch vụ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cung ứng cho xã viên đã tăng từ 46,1% năm 2006 lên 53,6% năm 2010, và ước đạt khoảng 70 % năm 2015. Đây là xu hướng khách quan và đúng đắn về việc hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ngày càng định hướng mang bản chất đích thực hơn, đem lại lợi ích cho xã viên thông qua cung ứng sản phẩm, dịch vụ cho họ. Tuy nhiên, Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 chưa quy định rõ và đầy đủ để khuyến khích hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động theo xu hướng này.

- Xu hướng thứ hai là mô hình tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong lĩnh vực công nghiệp giống với bản chất của tổ chức doanh nghiệp (theo Luật Doanh nghiệp): năm 2007 có 4.744 hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với gần 1 triệu xã viên, nhưng cung cấp tới hơn 90% doanh thu cho thị trường và tạo việc làm cho chỉ 6% xã viên. Các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với bản chất doanh nghiệp này sẽ mang tính chất đích thực hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhiều hơn khi kết nạp ngày càng nhiều hơn người lao động trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của mình trở thµnh đồng chủ sở hữu trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Tình hình trên có nhiều nguyên nhân khác nhau, từ nhận thức chưa đầy đủ và chưa thống nhất về bản chất và tính ưu việt của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu mới, hạn chế của Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, đến tổ chức thực hiện Luật và chính sách hỗ trợ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; tâm lý xã hội vẫn còn bị ảnh hưởng của mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu cũ nên còn hoài nghi về hiệu quả và vai trò của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

4. Cải thiện môi trường kinh doanh và yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế

Qua 25 năm thực hiện công cuộc Đổi mới, môi trường kinh doanh ở nước ta ngày càng hoàn thiện, cơ chế kinh tế thị trường ngày càng phát huy tác dụng sâu rộng, tự do kinh doanh ngày càng được pháp luật bảo đảm đi đôi với cạnh tranh thị trường ngày càng gay gắt hơn. Môi trường pháp luật cho các thành phần kinh tế, trong đó có khung pháp luật cho doanh nghiệp đã và đang được tiếp tục hoàn thiện. Thực tế đó tác động tới môi trường pháp luật đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; một mặt, đòi hỏi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải có đặc trưng rõ ràng hơn hướng vào phục vụ xã viên, kinh tế xã viên, nhất là hộ nông dân, cơ sở sản xuất - kinh doanh nhỏ đang đối mặt với nguy cơ ngày càng lớn của nghèo đói và bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển; mặt khác, khung pháp luật đối với tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải được tiếp tục hoàn thiện để thể hiện rõ bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thì mới tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển vững chắc, thu hút ngày càng nhiều cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân tham gia.

Việt Nam với tư cách là thành viên đầy đủ của Tổ chức thương mại thế giới đã cam kết thực hiện nhiều điều ước quốc tế. Khung pháp luật về kinh tế, trong đó có khung pháp luật về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã được ban hành, cần được sửa đổi, bổ sung một cách phù hợp.

Do vậy, việc sửa đổi Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là cần thiết để làm rõ bản chất tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và lợi ích của thành viên tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, góp phần hiện thực hóa chủ trương về kết hợp “bốn nhà” trong nông nghiệp; bảo đảm hỗ trợ, thúc đẩy hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển lành mạnh, bền vững đúng với bản chất và mục đích thành lập, tránh lạm dụng hỗ trợ của Nhà nước; thực hiện quản lý nhà nước về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có hiệu quả, từ đó góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta.

 

II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT

1. Mục tiêu sửa đổi Luật

Việc sửa đổi Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 nhằm mục tiêu khuyến khích và phát triển mạnh mẽ mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu mới, đồng thời định hướng phát triển các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hiện có hoạt động theo đúng bản chất hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đưa khu vực hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nói riêng và thành phần kinh tế tập thể nói chung trở thành lực lượng to lớn, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta; bảo đảm quyền và lợi ích của hàng chục triệu hộ nông dân, hàng chục triệu người tiêu dùng, hộ kinh doanh cá thể; góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của kinh tế hộ thành viên, đặc biệt là kinh tế hộ nông dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần cải thiện công bằng xã hội, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, và định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta.

2. Quan điểm

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003 quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:

Một là, xây dựng khung pháp luật cơ bản phù hợp với bản chất của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là mang lại lợi ích cho thành viên, thiết lập hành lang pháp lý hoàn chỉnh hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động và phát triển một cách tự chủ, vững chắc.

Hai là, thể chế hóa đầy đủ quan điểm của Đảng, theo đó hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trước hết tập trung làm tốt các khâu dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của hộ thành viên, trên cơ sở bảo đảm quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ cho kinh tế hộ, trang trại phát triển phù hợp với nguyên tắc tổ chức của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và cơ chế thị trường; góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và cải thiện công bằng xã hội.

Ba là, khắc phục các hạn chế của Luật hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003, tiếp thu tối đa các quy định còn phù hợp của Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003, đưa những quy định pháp luật cơ bản vào dự thảo Luật mới và hạn chế tối đa các nội dung cần hướng dẫn sau khi ban hành Luật Hợp tác xã (sửa đổi).

Bốn là, xây dựng khung pháp luật cơ bản trên cơ sở tổng kết thực tiễn phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ở nước ta, đồng thời tham khảo kinh nghiệm quốc tế phù hợp với thực tế của Việt Nam.

           

III. NỘI DUNG LUẬT

Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã (số 23/2012/QH13) đã được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2012 tại kỳ họp thứ 4 Khóa XIII và đã được Chủ tịch nước ký Lệnh về việc công bố Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ngày 03 tháng 12 năm 2012.

Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012 được xây dựng trên cơ sở tiếp tục thể chế hóa sâu sắc chủ trương của Đảng, tham khảo kinh nghiệm quốc tế về phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gần 200 năm qua có tính tới điều kiện thực tiễn của nước ta, và căn cứ vào xu hướng mới phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ở nước ta chuyển hướng mạnh sang cung ứng dịch vụ phục vụ thành viên.

Mô hình tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu mới được xây dựng trong Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012 là tổ chức do các thành viên tự nguyện hợp tác với nhau nhằm tương trợ lẫn nhau, đáp ứng nhu cầu chung về sản phẩm, dịch vụ cho chính mình; hợp thành khu vực thứ 3 của nền kinh tế bên cạnh khu vực công và khu vực tư.

Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012 nhằm mục tiêu khuyến khích và phát triển mạnh mẽ mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu mới, đồng thời định hướng phát triển các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hiện có hoạt động theo đúng bản chất hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đưa khu vực hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nói riêng và thành phần kinh tế tập thể nói chung trở thành lực lượng to lớn, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng trong nền kinh tế nước ta; bảo đảm quyền và lợi ích của hàng chục triệu hộ nông dân, hàng chục triệu người tiêu dùng, hộ kinh doanh cá thể.

Mô hình tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012 có khả năng thu hút số lượng lớn thành viên, gắn kết hoạt động và đời sống của họ cả về chiều ngang và chiều dọc, liên kết sản xuất cá thể của nông dân với các khâu nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, chế biến, tiêu thụ/xuất khẩu, gắn kết “bốn nhà” mà chính họ là người chủ sở hữu. Tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển sâu rộng sẽ tác động tích cực toàn diện cả về kinh tế, chính trị, và văn hóa - xã hội.

Mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu mới trong Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012, nếu thực hiện thành công, phát triển thành phong trào rộng khắp sẽ góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho hàng chục triệu hộ nông dân, hộ sản xuất kinh doanh cá thể, là bộ phận yếu thế trong xã hội. Đây sẽ thực sự là một phương thức mới góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của kinh tế hộ thành viên, đặc biệt là kinh tế hộ nông dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo trong xã hội, nhất là giữa nông thôn và thành thị, cải thiện công bằng xã hội, ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, và góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta.

Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012 gồm 9 chương, 64 Điều; giảm 01 chương so với Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003, tức bỏ Chương về khen thưởng và xử lý vi phạm do Điều 5 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 quy định: “Không quy định chương riêng về thanh tra, khiếu nại, tố cáo, khen thưởng, xử lý vi phạm trong văn bản quy phạm pháp luật nếu không có nội dung mới”; tăng thêm 13 điều so với Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003, chủ yếu làm rõ hơn bản chất, tổ chức quản lý của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; quyền, nghĩa vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; tiếp thu những quy định pháp luật mang tính cơ bản, ổn định lâu dài được quy định tại Nghị định 177/2004/NĐ-CP ngày 12/10/2004 và Nghị định 87/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 nhằm bảo đảm tính toàn diện của Luật, đồng thời nhằm hạn chế tối đa việc ban hành văn bản dưới Luật; tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập và hoạt động.

Liên hiệp hợp tác xã thực chất là tổ chức hợp tác xã của các hợp tác xã có nhu cầu hợp tác với nhau nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, được tổ chức quản lý theo nguyên tắc của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Do đó, để tránh trùng lắp, thay cho quy định về liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tại chương riêng về liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên minh hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tại Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2003, Luật đã ghép các nội dung quy định về liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã vào các quy định về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tại các chương, từ Chương I đến Chương VI, của Luật. Theo đó, các quy định đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong Luật cũng được áp dụng tương tự cho liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, có lưu ý những nội dung đặc thù riêng đối với tổ chức liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Tổ chức liên minh hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã không phải là tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, nên được đưa vào Chương VII: Tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Cụ thể là:

Chương I: những quy định chung

Chương I gồm 12 Điều, quy định về: phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; định nghĩa khái niệm hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; bảo đảm của Nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; nguyên tắc tổ chức hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, chế độ lưu giữ tài liệu của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; các hành vi bị nghiêm cấm; và giải thích một số từ ngữ quy định trong Luật.

Nội dung nổi bật của Chương này là:

- Làm rõ sự khác biệt cơ bản giữa hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã so với doanh nghiệp thể hiện ở định nghĩa HTX, theo đó hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Liên hiệp hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 04 hợp tác xã tự nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu chung của hợp tác xã thành viên, trên cơ sở tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý liên hiệp hợp tác xã.

- Thể hiện đầy đủ 7 nguyên tắc hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mang tính phổ biến trên thế giới, đồng thời có tính đến điều kiện cụ thể của Việt nam bằng cách bổ sung thêm nguyên tắc mở và nguyên tắc giao dịch kinh tế giữa hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên. Theo đó, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kết nạp rộng rãi thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên; thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên và hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có trách nhiệm thực hiện cam kết theo hợp đồng dịch vụ và theo quy định của điều lệ.

- Có chính sách hỗ trợ, ưu đãi đặc biệt riêng của Nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, phù hợp với điều kiện thực tế theo lĩnh vực, địa bàn, điều kiện phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ, đặc biệt bổ sung chính sách ưu đãi đặc biệt đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp. Theo đó, đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài việc được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi quy định chung cho các loại hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã còn được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi sau đây: a) Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; b) Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về đất đai; c) Ưu đãi về tín dụng; d) Vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh; đ) Chế biến sản phẩm.

- Xác định rõ quyền và nghĩa vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với tư cách là một pháp nhân và là tổ chức kinh tế hoạt động tự chủ; đồng thời với tư cách là tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên. Theo đó, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phải tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm theo ngành, nghề đã đăng ký nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên; được phép cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm cho thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên và ra thị trường nhưng phải bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên; phải thực hiện hợp đồng dịch vụ giữa hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với thành viên, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên.

Chương II: thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên

Chương II gồm 6 Điều, quy định về điều kiện trở thành thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên; quyền và nghĩa vụ của thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên; chấm dứt tư cách thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên; góp vốn điều lệ và giấy chứng nhận vốn góp; trả lại vốn góp cho thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên và thừa kế vốn góp

Mục đích tham gia hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên là được hưởng lợi ích trên cơ sở hợp tác với các thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên khác của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thông qua việc tham gia dịch vụ với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gắn với quyền và nghĩa vụ cụ thể của thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên trong việc tham gia dịch vụ đó. Theo đó, Luật quy định điều kiện để trở thành thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên là phải có nhu cầu hợp tác với thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên và có nhu cầu sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Khi đã trở thành thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thì được hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cung ứng sản phẩm, dịch vụ theo hợp đồng dịch vụ; đồng thời cũng phải có nghĩa vụ sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo hợp đồng dịch vụ và sẽ bị chấm dứt tư cách thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên nếu không sử dụng sản phẩm, dịch vụ trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 03 năm. Đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tạo việc làm, thành viên không làm việc trong thời gian liên tục theo quy định của điều lệ nhưng không quá 02 năm.

Để bảo đảm tính dân chủ trong quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khả thi trong cuộc sống và phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật đã hạ mức vốn góp tối đa của thành viên trong vốn điều lệ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã xuống mức không quá 20% vốn điều lệ.

Chương III: thành lập và đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Chương III gồm 10 Điều, quy định về: sáng lập viên; hội nghị thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; nội dung điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; tên và biểu tượng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; sổ đăng ký thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên; trụ sở chính của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; văn phòng đại diện, chi nhánh và địa điểm kinh doanh của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; thay đổi nội dung đăng ký của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Luật yêu cầu điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy định một số nội dung như: mục tiêu hoạt động; mức độ thường xuyên sử dụng sản phẩm, dịch vụ; giá trị tối thiểu của sản phẩm, dịch vụ mà thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên phải sử dụng; thời gian liên tục mà thành viên, hợp tác xã thành viên không sử dụng sản phẩm, dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nhưng không quá 03 năm; thời gian liên tục mà thành viên không làm việc cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tạo việc làm nhưng không quá 02 năm; tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm mà hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cam kết cung ứng, tiêu thụ cho thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên ra thị trường nhằm làm căn cứ xác định và định hướng hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động đúng bản chất.

Chương IV: tổ chức quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Chương IV gồm 13 Điều, quy định về: cơ cấu tổ chức của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đại hội thành viên; triệu tập đại hội thành viên; quyền hạn và nhiệm vụ của đại hội thành viên; chuẩn bị đại hội thành viên; biểu quyết trong đại hội thành viên; hội đồng quản trị hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; quyền hạn và nhiệm vụ của hội đồng quản trị; quyền hạn và nhiệm vụ của chủ tịch hội đồng quản trị; giám đốc (tổng giám đốc) hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; ban kiểm soát, kiểm soát viên; điều kiện trở thành thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên, giám đốc (tổng giám đốc) hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức, chấm dứt hợp đồng các chức danh quản lý hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Chương này khẳng định cơ cấu tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã gồm đại hội thành viên, hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc) và ban kiểm soát hoặc kiểm soát viên; bảo đảm hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được tổ chức chặt chẽ với tư cách là một tổ chức kinh tế tự chủ, tự chịu trách nhiệm bảo đảm hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động hiệu quả trên thị trường với việc phân rõ hơn quyền hạn, nhiệm vụ của từng bộ phận, cá nhân (đại hội thành viên, hội đồng quản trị, chủ tịch hội đồng quản trị, ban kiểm soát, trưởng ban kiểm soát, giám đốc) trong cơ cấu tổ chức của mình, đặc biệt tách bạch rõ chức năng quản lý với chức năng điều hành hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; bảo đảm quyền làm chủ của thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đối với mọi vấn đề của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã với quyền biểu quyết như nhau không phụ thuộc mức vốn góp.

Chương V: tài sản, tài chính của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Chương V gồm 10 Điều, quy định về: xác định giá trị vốn góp; tăng, giảm vốn điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; huy động vốn và các khoản trợ cấp, hỗ trợ; vốn hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; phân phối thu nhập; quản lý, sử dụng các quỹ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; tài sản của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; xử lý tài sản và vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khi giải thể; xử lý các khoản lỗ, khoản nợ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; trình tự trả lại vốn góp.

Chương V quy định các nội dung liên quan đến vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, thu nhập và phân phối thu nhập, xử lý vốn và tài sản của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khi giải thể, bị lỗ và việc trả lại vốn góp của thành viên. Trong đó có nội dung nội bật là: khuyến khích huy động vốn hoạt động cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trước hết từ thành viên theo đúng tinh thần hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau, mang lại lợi ích trước hết cho thành viên, hợp tác xã thành viên; phân phối thu nhập sau thuế cho thành viên, hợp tác xã thành viên chủ yếu theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoặc công sức lao động đóng góp của thành viên vào hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, phần còn lại mới chia theo vốn góp.

Quy định về tài sản không chia, việc trả lại vốn góp như là chất keo dính giữa các thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên với nhau và giữa thành viên với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên với liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã bảo đảm giúp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển bền vững vì chính lợi ích của thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên. Theo đó, tài sản không chia hình thành từ 2 nguồn: hỗ trợ của Nhà nước, quà tặng, cho, và tích lũy của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong quá trình hoạt động do điều lệ hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy định. Việc trả lại vốn góp cho thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên chỉ được thực hiện sau khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đã quyết toán thuế của năm tài chính và bảo đảm khả năng thanh toán các khoản nợ, nghĩa vụ tài chính của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên chỉ được trả lại vốn góp sau khi đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính của mình đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Cá nhân hoặc tập thể quyết định việc trả lại vốn góp cho thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên không đúng quy định tại khoản này phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Chương VI: chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể, phá sản hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Chương VI gồm 5 Điều, quy định về: chia, tách hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; hợp nhất, sáp nhập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; giải thể hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Chương này quy định chủ yếu về trình tự, thủ tục chia, tách, sáp nhập, hợp nhất, giải thể (tự nguyện hoặc bắt buộc), phá sản và thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Chương VII: tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Chương VII gồm 2 Điều, quy định về: tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và về tổ chức liên minh hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã như là tổ chức đại diện đặc thù của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Chương này bổ sung một điều riêng quy định về tổ đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Theo đó, tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã do các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tự nguyện thành lập nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có thể được tổ chức theo ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ; được tổ chức, hoạt động theo quy định của pháp luật về hội và pháp luật có liên quan.

Đồng thời, Luật khẳng định Liên minh hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là tổ chức đại diện của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Chương VIII: quản lý nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Chương VIII gồm 3 Điều, quy định về: nội dung quản lý nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; thanh tra, kiểm tra, kiểm toán đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Luật giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư giúp Chính phủ quản lý nhà nước về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Đồng thời Chương này bổ sung một điều quy định về thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nhằm tăng cường việc thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định pháp luật về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, góp phần lành mạnh hóa, thúc đẩy khu vực hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phát triển. Theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp thực hiện thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quy định pháp luật về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ thực hiện thanh tra, kiểm tra hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Việc kiểm toán hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã do Chính phủ quy định.

Chương IX: điều khoản thi hành

Chương IX gồm 3 Điều, quy định về: điều khoản chuyển tiếp; hiệu lực thi hành; quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật.

Trong đó có quy định về thời hạn 36 tháng kể từ khi Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012 có hiệu lực thi hành thì các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động mới phải thực hiện theo quy định của Luật nhằm giúp các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập trước khi Luật này có hiệu lực thi hành củng cố, tổ chức lại để phù hợp với quy định của Luật.

           

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã  năm 2012 tác động đến số đông người dân, khoảng 70% dân số Việt Nam, đặc biệt tác động đến đa số nông dân, những người sống ở nông thôn mà phần đông trong số họ là những người yếu thế trong xã hội. Bởi vậy, để đưa Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012 đi vào cuộc sống, phát huy hiệu lực và hiệu quả, thật sự là một nhân tố nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân theo chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, cần đặc biệt chú trọng công tác triển khai tổ chức thi hành Luật. Có 3 nhóm công việc quan trọng là:

1. Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật

Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã năm 2012 giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết các nội dung sau:

 Một là, về chính sách ưu đãi, hỗ trợ của Nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy định tại Điều 6:

1. Nhà nước có chính sách hỗ trợ sau đây đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã:

a) Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;

b) Xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường;

c) Ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới;

d) Tiếp cận vốn và quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã;

đ) Tạo điều kiện tham gia các chương trình mục tiêu, chương trình phát triển kinh tế - xã hội;

e) Thành lập mới hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

3. Đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, ngoài việc được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này còn được hưởng chính sách hỗ trợ, ưu đãi sau đây:

a) Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng;

b) Giao đất, cho thuê đất để phục vụ hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về đất đai;

c) Ưu đãi về tín dụng;

d) Vốn, giống khi gặp khó khăn do thiên tai, dịch bệnh;

đ) Chế biến sản phẩm.

Hai là, về chế độ báo cáo về tình hình hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy định tại khoản 10 Điều 9.

Ba là, về điều kiện, thủ tục trở thành thành viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đối với pháp nhân Việt Nam và đối với cá nhân là người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam quy định tại Điều 13.

Bốn là, về tỷ lệ cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm mà hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cam kết cung ứng, tiêu thụ cho thành viên, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành viên ra thị trường theo từng lĩnh vực, loại hình quy định tại khoản 13 Điều 21.

Năm là, về tên, biểu tượng của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy đinh tại Điều 22.

Sáu là, về cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký; trình tự, thủ tục cấp và nội dung của giấy chứng nhận đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy định tại Điều 23.

Bảy là, về trình tự, thủ tục thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện và địa điểm kinh doanh ở trong nước và nước của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Tám là, về việc sử dụng vốn của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã để góp vốn, mua cổ phần, thành lập doanh nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 45.

Chín là, về việc xử lý tài sản không chia của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khi giải thể, phá sản quy định tại khoản 4 Điều 49.

Mười là, về việc giải thể hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy định tại Điều 54.

Mười một là, về nội dung quản lý nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy định tại Điều 59:

1. Ban hành, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã và văn bản pháp luật có liên quan.

 2. Xây dựng bộ máy và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

3. Tổ chức và hướng dẫn đăng ký hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

4. Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; xử lý các hành vi vi phạm pháp luật của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, của cá nhân và tổ chức có liên quan theo quy định của pháp luật.

5. Hợp tác quốc tế về phát triển hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

Mười hai là, về điều khoản chuyển tiếp quy định tại Điều 62:

“1. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã được thành lập trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà tổ chức và hoạt động không trái với quy định của Luật này thì tiếp tục hoạt động và không phải đăng ký lại.

2. Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thành lập trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà tổ chức và hoạt động không phù hợp với quy định của Luật này thì phải đăng ký lại hoặc chuyển sang loại hình tổ chức khác trong thời hạn 36 tháng, kể từ khi Luật này có hiệu lực thi hành.”

Mười ba là, về kiểm toán hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã quy định tại khoản 3 Điều 61.

 

2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật đến cán bộ, nhân dân

Tư tưởng về mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong dự án Luật là mới mẻ đối với các cấp, người dân; nhận thức của xã hội về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ở nước ta chưa thống nhất. Mặt khác, nhận thức về bản chất tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã ở nước ta trong thời gian dài chưa đầy đủ và thống nhất; do vậy, càng cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Luật đến cán bộ, nhân dân, từ đó thống nhất và nâng cao nhận thức trong toàn đảng, toàn dân về bản chất và vai trò quan trọng của tổ chức hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã trong xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước. Để có được nhận thức chung về mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức hội, hiệp hội cần chủ động phối hợp với các cơ quan Nhà nước thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến nội dung của Luật đến người dân. Đồng thời, Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, Báo Nhân dân và các cơ quan thông tấn, báo chí khác ở Trung ương và địa phương cần phải phối hợp với các cơ quan liên quan đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, tập huấn, tuyên truyền về Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, bảo đảm thống về nhận thức và hành động trong thực hiện Luật Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã; đồng thời tuyên truyền mô hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã kiểu mới đã thành công để người dân hiểu, vận dụng vào cuộc sống.

3. Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã

Thông qua Luật đã khó, nhưng đưa Luật phát huy hiệu quả trong cuộc sống còn khó hơn, đòi hỏi sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, đặc biệt phải có sự chỉ đạo, thực hiện quyết liệt của bộ máy hành pháp với trọng tâm là bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể mang tính tập trung, thống nhất và xuyên suốt từ trung ương đến địa phương. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại báo cáo giải trình Quốc hội số 255/BC-UBTVQH13 ngày 23 tháng 10 năm 2012 yêu cầu: “Chính phủ cần kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã từ trung ương đến địa phương; tổ chức hướng dẫn thi hành Luật nghiêm túc và hiệu quả; góp phần nâng cao vai trò kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

Do vậy, trong thời gian tới, cần kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế tập thể, hợp tác xã bảo đảm đủ tầm, đủ lực đưa Luật Hợp tác xã năm 2012 vào cuộc sống và đưa phong trào hợp tác xã phát triển đúng tiềm năng theo chủ trương của Đảng đã đề ra về phát triển kinh tế tập thể.

 



[1] Hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã của người lao động cũng là một loại hình hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phổ biến trên thế giới, theo đó, xã viên vừa là đồng sở hữu, vừa là người lao động trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã. Đây là một loại hình đặc biệt của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã phục vụ xã viên, khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã cung cấp “việc làm” cho xã viên.

[2] Theo kết quả điều tra khảo sát HTX toàn quốc năm 2008, có 336 HTX xây dựng (trong tổng số 14.500 HTX), chủ yếu là HTX của người lao động (xã viên HTX đồng thời là người lao động trong HTX)

[3] Việc kết nạp rộng rãi thành viên đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã thể hiện bản chất của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là phục vụ cộng đồng, đồng thời phản ánh mục tiêu hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã là nhu cầu, nguyện vọng chung của nhiều người nên hấp dẫn nhiều đối tượng tham gia.

[4] Theo kết quả khảo sát HTX toàn quốc, 95,57% tổng số HTX tổ chức một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành

[5] Kết quả dự án Khảo sát thu thập thông tin xây dựng cơ sở dữ liệu về hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã: đa số các HTX chia lãi chủ yếu theo vốn góp (60,8%) trong khi việc chia lãi theo mức độ sử dụng dịch vụ chỉ chiếm 5,8% tổng số hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã có lãi trong hoạt động cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho xã viên hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã.

[6] Thời điểm điều tra là ngày 30/6/2008, đối tượng điều tra là các hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã đang hoạt động tại thời điểm điều tra.

 
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ngoại hối
Đề cương giới thiệu Luật phòng, chống thiên tai
Đề cương giới thiệu Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ số 07/2013/UBTVQH13
Giới thiệu Luật Hòa giải cơ sở
Đề cương giới thiệu Luật Khoa học và công nghệ năm 2013.
Đề cương giới thiệu Luật giáo dục quốc phòng và an ninh
Đề cương giới thiệu Luật Công đoàn năm 2012.
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật quản lý thuế số 21/2012/QH13
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế Thu nhập cá nhân số 26/2012/QH13
Đề cương giới thiệu Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật luật sư.
Đề cương giới thiệu Luật Giáo dục đại học
Đề cương giới thiệu Luật Dự trữ quốc gia.
Đề cương giới thiệu Luật Xuất bản
Đề cương giới thiệu Luật Thủ đô
Đề cương sửa đổi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống tham nhũng.
Đề cương giới thiệu Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Đề cương giới thiệu Luật Bảo hiểm tiền gửi.
Đề cương giới thiệu Luật Giá.
Đề cương giới thiệu Luật Giám định tư pháp.
Đề cương giới thiệu Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật.

  • Tiếc
    16/04/2024
    Một ông nổi tiếng keo kiệt phải cấp cứu vì ăn nhầm nấm độc. Sau khi được bác sỹ rửa ruột, tiêm thuốc, ông ta hồi tỉnh lại. Trước khi cho xuất viện, báo sỹ hỏi:
  • Giải đáp
    16/04/2024
    Bà vợ hỏi ông chồng: - Tại sao người ta chọn Giờ Trái đất vào ngày thứ bảy cuối cùng của tháng 3 hằng năm ông nhỉ?
  • Món ngon
    16/04/2024
    Hai bợp nhậu ngồi tám chuyện: - Đố ông, trong các món mồi nhậu, con gì ngon nhất?
Số lượt truy cập: 493076