BỘ TƯ PHÁP VỤ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT | BỘ LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI VỤ PHÁP CHẾ |
ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU
LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
___________________
Luật người khuyết tật được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Việt Nam, Khoá XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2011. Trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh người tàn tật và các văn bản hiện hành có liên quan, tiếp thu vận dụng có chọn lọc các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia, bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của Việt Nam, Luật này quy định tương đối đầy đủ, toàn diện về người khuyết tật, về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật; trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với người khuyết tật, từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách về người khuyết tật.
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1. Nhằm thể chế hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người khuyết tật
Trong tiến trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, người khuyết tật luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội chăm sóc và giúp đỡ. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991) đã chỉ rõ: “không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội. Chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, tàn tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi”. Hiến pháp quy định: “Người già, người tàn tật, trẻ em mồ côi không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ" và “Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học văn hóa và học nghề phù hợp”[1]. Đồng thời khẳng định mọi thành viên, bao gồm cả người khuyết tật đều được nhà nước bảo đảm quyền công dân như nhau và đều được hưởng các thành quả chung của sự phát triển xã hội. Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật” và “tiến tới xây dựng luật về bảo trợ người tàn tật"[2].
Việc ban hành Dự án Luật nhằm cụ thể hóa cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, từng bước luật pháp hóa các quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội và các chính sách liên quan đến người khuyết tật, tạo môi trường pháp lý, điều kiện và cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với người khuyết tật.
2. Tình hình thực tế về người khuyết tật ở Việt Nam
Theo số liệu khảo sát năm 2005, cả nước có khoảng 5,3 triệu người khuyết tật, chiếm khoảng 6,34% dân số (trong đó có 1,1 triệu khuyết tật nặng, chiếm 21,5% tổng số người khuyết tật). Bao gồm 29,41% khuyết tật vận động, 16,83% thần kinh, 13,84% thị giác, 9,32% thính giác, 7,08% ngôn ngữ, 6,52% trí tuệ và 17% các dạng tật khác[3]. Tỷ lệ nam là người khuyết tật cao hơn nữ do các nguyên nhân hậu quả chiến tranh, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, tai nạn thương tích...
Nguyên nhân gây nên khuyết tật có tới 35,8% do bẩm sinh, 32,34% do bệnh tật, 25,56% do hậu quả chiến tranh, 3,49% do tai nạn lao động và 2,81% do các nguyên nhân khác. Dự báo trong nhiều năm tới số lượng người khuyết tật ở Việt Nam chưa giảm do tác động của ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng của chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh Việt Nam, tai nạn giao thông và tai nạn lao động, hậu quả thiên tai…
Đời sống vật chất, tinh thần của người khuyết tật còn nhiều khó khăn. Có tới 37% người khuyết tật đang sống trong hộ nghèo (cao gấp 3 lần so với tỷ lệ nghèo chung cùng thời điểm); 24% ở nhà tạm, 34,4% từ 6 tuổi chưa biết chữ và 21,24% chưa tốt nghiệp tiểu học; 79,13% trong độ tuổi lao động không có khả năng tham gia lao động; 88,94% từ 16 tuổi chưa được đào tạo chuyên môn (trong đó chỉ có 2% đang học nghề); 79,13% sống dựa vào gia đình, người thân...[4] Những khó khăn này cản trở người khuyết tật tiếp cận dịch vụ y tế, giáo dục, học nghề, tìm kiếm việc làm, tham gia giao thông, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và hòa nhập cộng đồng.
Vì vậy, đối với người khuyết tật, ngoài những quy định chung về quyền, nghĩa vụ như mọi công dân, cần thiết có hành lang pháp lý bảo vệ quyền, lợi ích và các chính sách dành riêng cho họ.
3. Tình hình pháp luật, chính sách đối với người khuyết tật ở Việt Nam
Pháp lệnh về người tàn tật quy định các nội dung nhằm khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và phát huy khả năng ổn định đời sống, hòa nhập cộng đồng, quy định chính sách trợ giúp, chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, tạo việc làm phù hợp[5]. Bên cạnh Pháp lệnh cũng đã có 20 luật có quy định riêng liên quan trực tiếp đến người khuyết tật. Như: Bộ Luật dân sự, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Bộ luật lao động, Luật dạy nghề, Luật bảo hiểm xã hội, Luật bảo hiểm y tế, Luật giáo dục, Luật xây dựng, Luật giao thông đường bộ… và trên 200 văn bản hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh và các luật đã góp phần cải thiện đời sống người khuyết tật và làm thay đổi nhận thức xã hội về người khuyết tật; tạo môi trường pháp lý, môi trường xã hội thuận lợi để người khuyết tật hòa nhập cộng đồng; khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia trợ giúp người khuyết tật.
Hàng năm có gần một triệu người khuyết tật được trợ cấp từ ngân sách nhà nước (trợ cấp xã hội, trợ cấp thương binh, bệnh binh và người hưởng chính sách như thương binh); hàng trăm ngàn lượt người được hỗ trợ chỉnh hình, phục hồi chức năng, được cung cấp phương tiện trợ giúp (xe lăn, xe đẩy...). Thực hiện chương trình phục hồi chức năng, 100% tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng mạng lưới phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng; có 260.000 trẻ em khuyết tật học hòa nhập ở các cơ sở giáo dục và 6.000 trẻ em khuyết tật học ở các cơ sở giáo dục chuyên biệt; 19.000 người khuyết tật được học nghề và bình quân mỗi năm có khoảng 10.000 người khuyết tật được giới thiệu việc làm thông qua trung tâm dịch vụ việc làm. Các tổ chức của người khuyết tật ngày càng được mở rộng ở các tỉnh, thành phố như: Hội người mù, Hội người điếc, Hội người khuyết tật các tỉnh, Hội bảo trợ người tàn tật và trẻ em mồ côi, Hội cứu trợ trẻ em tàn tật, Hiệp hội sản xuất, kinh doanh của người tàn tật...
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện Pháp lệnh vẫn còn nhiều cơ chế, chính sách chưa thật sự đi vào cuộc sống hoặc chưa được thực hiện đầy đủ như: chưa xác định được hạng khuyết tật; người khuyết tật chưa thật sự được tạo điều kiện tiếp cận hạ tầng cơ sở, công nghệ thông tin, giao thông công cộng; các doanh nghiệp chưa nhận đủ số lao động là người tàn tật theo quy định; quỹ việc làm người tàn tật, quỹ hỗ trợ người tàn tật chưa được các địa phương quan tâm thành lập; nguồn lực chưa được bảo đảm đủ, công tác tuyên truyền phổ biến chính sách, giám sát thực thi pháp luật... còn nhiều hạn chế, khiến hiệu quả thực hiện luật, pháp lệnh và các chính sách đối với người khuyết tật chưa cao, còn một số chính sách không khả thi trong cuộc sống.
Để bảo đảm tính hệ thống của chính sách pháp luật về người khuyết tật, bảo đảm sự phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật[6], thì sau hơn 10 năm thực hiện, Pháp lệnh về người tàn tật cần được xem xét tổng kết đánh giá, hoàn thiện nâng lên thành Luật, tạo thành một hệ thống chính sách, pháp luật bảo đảm sự tham gia bình đẳng của người khuyết tật.
4. Đáp ứng yêu cầu thực hiện Công ước quốc tế liên quan đến người khuyết tật mà Việt Nam là thành viên và yêu cầu hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực liên quan đến người khuyết tật
Ngày 13 tháng 12 năm 2006, Liên hợp quốc đã thông qua Công ước về quyền của người khuyết tật. Đến nay đã có 150 quốc gia ký tham gia, trong đó 50 quốc gia đã phê chuẩn. Việt Nam cũng đã ký tham gia và đang trong quá trình nghiên cứu để trình các cấp có thẩm quyền phê chuẩn. Kinh nghiệm các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan sau khi phê chuẩn Công ước về quyền người khuyết tật, đều có sự điều chỉnh lại các quy định của luật người khuyết tật trong nước cho phù hợp với nguyên tắc chung của Công ước về quyền của người khuyết tật. Trong khu vực, Việt Nam cam kết thực hiện 7 lĩnh vực ưu tiên trong "Khuôn khổ hành động thiên niên kỷ Biwako hướng tới một xã hội hòa nhập, không vật cản vì quyền của người khuyết tật", khu vực Châu Á - Thái Bình Dương thập kỷ thứ II về người khuyết tật (2001-2012).
Nghiên cứu so sánh hệ thống pháp luật Việt Nam với Công ước về quyền của người khuyết tật cho thấy: về cơ bản các quy định liên quan đến người khuyết tật của ta tương đối phù hợp với Công ước về quyền người khuyết tật. Tuy nhiên, còn một số điều, khoản quy định trong Công ước chưa được quy định trong hệ thống các luật hoặc có nhưng ở các văn bản hướng dẫn của Chính phủ, Bộ, ngành, cần được khái quát để điều chỉnh thành các nguyên tắc chung trong hệ thống luật quốc gia.
Để người khuyết tật được hưởng đầy đủ và bình đẳng các quyền con người, quyền tự do cơ bản mang tính toàn cầu và tạo điều kiện tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; đồng thời xây dựng xã hội không rào cản, theo cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc thực hiện Thập kỷ lần thứ II về người khuyết tật và yêu cầu hội nhập, cần nghiên cứu xây dựng luật để thay thế Pháp lệnh về người tàn tật.
Xuất phát từ các yêu cầu trên, việc xây dựng và ban hành Luật người khuyết tật để thay thế Pháp lệnh về người tàn tật là hết sức cần thiết.
II. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
Luật người khuyết tật được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Việt Nam khoá XII, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2010, Luật người khuyết tật gồm 10 chương, 53 điều, với các nội dung bản như sau:
1. Chương I. Những quy định chung
Gồm 14 điều quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; dạng và mức độ khuyết tật; quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật; chính sách của Nhà nước về Người khuyết tật; xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết tật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân; trách nhiệm của gia đình; tổ chức của người khuyết tật, tổ chức vì người khuyết tật; quỹ trợ giúp người khuyết tật; ngày Người khuyết tật Việt Nam; hợp tác quốc tế về người khuyết tật; thông tin, truyền thông, giáo dục; những hành vi nghiêm cấm.
- Về phạm vi điều chỉnh quy định tại Điều 1: quy định về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật; trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với người khuyết tật.
- Về giải thích từ ngữ quy định tại Điều 2, giải thích 8 cụm từ: Người khuyết tật, kỳ thị người khuyết tật, phân biệt đối xử người khuyết tật, giáo dục hòa nhập, giáo dục chuyên biệt, giáo dục bán hòa nhập, sống độc lập, tiếp cận.
- Dạng tật và mức độ khuyết tật quy định tại khoản 1, Điều 3 gồm 5 dạng khuyết tật (Khuyết tật vận động; Khuyết tật nghe, nói; Khuyết tật nhìn; Khuyết tật thần kinh, tâm thần; Khuyết tật trí tuệ) và Khuyết tật khác.
- Khoản 2, Điều 3 quy định theo mức độ khuyết tật: Người khuyết tật đặc biệt nặng; Người khuyết tật nặng; Người khuyết tật nhẹ.
Chính phủ sẽ quy định chi tiết về dạng tật và mức độ khuyết tật quy định tại Điều 3 của luật.
- Về quyền và nghĩa vụ của người khuyết tật được quy định tại khoản 1, Điều 4: Tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội; Sống độc lập, hòa nhập cộng đồng; Được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã hội; Được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật; Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Người khuyết tật thực hiện các nghĩa vụ công dân theo quy định của pháp luật.
- Về chính sách của Nhà nước về người khuyết tật được quy định tại Điều 5: Hàng năm, Nhà nước bố trí ngân sách để thực hiện chính sách về người khuyết tật; Phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật do tai nạn thương tích, bệnh tật và nguy cơ khác dẫn đến khuyết tật; Bảo trợ xã hội; trợ giúp người khuyết tật trong chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, tiếp cận công trình công cộng và công nghệ thông tin, tham gia giao thông; ưu tiên thực hiện chính sách bảo trợ xã hội và hỗ trợ người khuyết tật là trẻ em, người cao tuổi; Lồng ghép chính sách về người khuyết tật trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội; Tạo điều kiện để người khuyết tật được chỉnh hình, phục hồi chức năng; khắc phục khó khăn, sống độc lập và hòa nhập cộng đồng; Đào tạo, bồi dưỡng người làm công tác tư vấn, chăm sóc người khuyết tật; Khuyến khích hoạt động trợ giúp người khuyết tật; Tạo điều kiện để tổ chức của người khuyết tật, tổ chức vì người khuyết tật hoạt động; Khen thưởng cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích, đóng góp trong việc trợ giúp người khuyết tật; Xử lý nghiêm minh cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan.
- Luật quy định tại Điều 6 về xã hội hóa hoạt động trợ giúp người khuyết tật: để huy động các lực lượng xã hội, các cơ quan, tổ chức các nhân trong nước và nước ngoài tham gia bảo vệ, chăm sóc, giúp đỡ người khuyết tật.
- Luật quy định tại Điều 7 về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khuyết tật.
- Luật quy định rõ trách nhiệm của gia đình đối với người khuyết tật tại Điều 8. Theo đó, gia đình phải có trách nhiệm: Bảo vệ, nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật; Tạo điều kiện để người khuyết tật được chăm sóc sức khỏe và thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; Tôn trọng ý kiến của người khuyết tật trong việc quyết định những vấn đề liên quan đến cuộc sống của bản thân người khuyết tật và gia đình.
- Tổ chức của người khuyết tật, tổ chức vì người khuyết tật quy định tại Điều 9: Tổ chức của người khuyết tật là tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để đại diện cho quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên là người khuyết tật, tham gia xây dựng, giám sát thực hiện chính sách, pháp luật đối với người khuyết tật; Tổ chức vì người khuyết tật là tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật để thực hiện các hoạt động trợ giúp người khuyết tật.
- Quỹ trợ giúp người khuyết tật quy định tại Điều 10: Quỹ trợ giúp người khuyết tật là quỹ xã hội từ thiện nhằm huy động nguồn lực trợ giúp người khuyết tật.
- Điều 11 quy định về “Ngày người khuyết tật Việt Nam” là Ngày 18 tháng 4 hàng năm.
- Điều 12 quy định về hợp tác quốc tế về người khuyết tật được thực hiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng, phù hợp với pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế.
- Điều 13 quy định về thông tin, truyền thông, giáo dục nhằm đảm bảo thực hiện luật người khuyết tật, gồm các nội dung cơ bản sau: Thông tin, truyền thông, giáo dục về vấn đề khuyết tật nhằm phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; nâng cao nhận thức, thay đổi thái độ và hành vi về vấn đề khuyết tật; chống kỳ thị, phân biệt đối xử người khuyết tật; Nội dung thông tin, truyền thông, giáo dục về vấn đề khuyết tật bao gồm: Quyền, nghĩa vụ của người khuyết tật; Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về người khuyết tật; Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, gia đình đối với người khuyết tật; Nguyên nhân dẫn đến khuyết tật và các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu khuyết tật; Chống kỳ thị, phân biệt đối xử người khuyết tật. Đồng thời quy định rõ thông tin, truyền thông, giáo dục về vấn đề khuyết tật phải bảo đảm chính xác, rõ ràng, thiết thực; phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo đức xã hội.
- Căn cứ tính chất và nét đặc thù đối với người khuyết tật, Luật người khuyết tật quy định 7 nhóm hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 14 nhằm bảo vệ và chăm, sóc người khuyết tật: Kỳ thị, phân biệt đối xử người khuyết tật; Xâm phạm thân thể, nhân phẩm, danh dự, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của người khuyết tật; Lôi kéo, dụ dỗ hoặc ép buộc người khuyết tật thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, đạo đức xã hội; Lợi dụng người khuyết tật, tổ chức của người khuyết tật, tổ chức vì người khuyết tật, hình ảnh, thông tin cá nhân, tình trạng của người khuyết tật để trục lợi hoặc thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; Người có trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ trách nhiệm nuôi dưỡng, chăm sóc theo quy định của pháp luật; Cản trở quyền kết hôn, quyền nuôi con của người khuyết tật; Gian dối trong việc xác định mức độ khuyết tật, cấp giấy xác nhận khuyết tật.
2. Chương II. Xác nhận khuyết tật
Gồm 6 điều, từ Điều 15 đến Điều 20 quy định về Trách nhiệm xác định mức độ khuyết tật; Hội đồng xác định mức độ khuyết tật; Phương pháp xác định mức độ khuyết tật; Thủ tục xác định mức độ khuyết tật; xác định lại mức độ khuyết tật.
3. Chương III. Chăm sóc sức khỏe
Gồm 6 điều, từ Điều 21 đến Điều 26 quy định về Chăm sóc sức khỏe ban đầu tại nơi cư trú; Khám bệnh, chữa bệnh; Trách nhiệm của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; Cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng; Phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng; Nghiên cứu khoa học, đào tạo chuyên gia, kỹ thuật viên, sản xuất trang thiết bị dành cho người khuyết tật .
4. Chương IV. Giáo dục
Gồm 4 điều, từ Điều 27 đến Điều 31 quy định về chính sách giáo dục đối với người khuyết tật; các phương thức giáo dục người khuyết tật bao gồm giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt; các chính sách, chế độ đối với cán bộ, giáo viên, giảng viên và nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật; trách nhiệm của cơ sở giáo dục và trung tâm hỗ trợ giáo dục hòa nhập trong việc tạo điều kiện về bảo đảm cơ sở vật chất và thực hiện giáo dục đối với người khuyết tật.
5. Chương V. Dạy nghề và việc làm
Gồm 4 điều, từ Điều 32 đến Điều 35 quy định về các chính sách Dạy nghề đối với người khuyết tật; Việc làm đối với người khuyết tật; Cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật; Chính sách nhận người khuyết tật vào làm việc.
6. Chương VI. Văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch
Gồm 3 điều, từ Điều 36 đến Điều 38 quy định chính sách, trách nhiệm của nhà nước, xã hội và các cơ sở văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch trong việc bảo đảm các điều kiện để người khuyết tật tiếp cận và tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.
7. Chương VII. Nhà chung cư, công trình công cộng, giao thông, công nghệ thông tin và truyền thông
Gồm 5 điều, từ Điều 39 đến Điều 43 quy định về các điều kiện trong việc phê duyệt thiết kế đầu tư xây dựng mới, lộ trình cải tạo công trình công cộng nhằm bảo đảm các điều kiện tiếp cận và sử dụng của người khuyết tật; tham gia giao thông của người khuyết tật; phương tiện giao thông và các chính sách, biện pháp bảo đảm người khuyết tật tiếp cận giao thông, tiếp cận công nghệ thông tin và truyền thông.
8. Chương VIII. Bảo trợ xã hội
Gồm 5 điều, Từ Điều 44 đến Điều 48 quy định về các chính sách trợ cấp xã hội đối với người khuyết tật, gia đình người khuyết tật, người nhận nuôi dưỡng và chăm sóc người khuyết tật; chính sách nuôi dưỡng tập chung trong cơ sở chăm sóc người khuyết tật; chính sách hỗ trợ mai táng; cơ sở chăm sóc người khuyết tật.
9. Chương IX. Trách nhiệm của cơ quan Nhà nước về công tác người khuyết tật
Gồm 2 điều, Điều 49 và Điều 50 quy định về cơ quan quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật; Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật; Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật; Ủy ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về công tác người khuyết tật.
10. Chương IX. Điều khoản thi hành
Gồm 3 điều, từ Điều 51 đến Điều 53 quy định về áp dụng pháp luật, hiệu lực thi hành và hướng dẫn thi hành. Chương này quy định rõ một số nguyên tắc áp dụng để có cơ sở áp dụng luật này trong thực tiễn, đảm bảo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Quốc hội đã giao cho Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các điều, khoản được giao trong Luật; hướng dẫn những nội dung cần thiết khác của Luật này để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước.
III. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI SO VỚI QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT
So với Pháp lệnh về người tàn tật, Luật Người khuyết tật có những điểm mới sau đây:
1. Quy định khái niệm người khuyết tật trên cơ sở kế thừa Pháp lệnh về người tàn tật và thể hiện được quan điểm tiếp cận về mặt xã hội theo tinh thần của Công ước về quyền của người khuyết tật.
2. Quy định 6 dạng tật; 3 mức độ khuyết tật và nguyên tắc để Chính phủ có cơ sở quy định cụ thể, nhằm bảo đảm việc xây dựng chính sách, giải pháp để thực hiện.
3. Quy định quyền, nghĩa vụ của người khuyết tật theo hướng tạo điều kiện để thực hiện bình đẳng quyền công dân và nhấn mạnh quyền và nghĩa vụ riêng biệt của người khuyết tật, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân trong việc bảo đảm để người khuyết tật thực hiện quyền, nghĩa vụ của họ.
4. Quy định 10 nhóm giải pháp chính sách của Nhà nước, trong đó nhấn mạnh việc bảo đảm nguồn lực, các điều kiện thực thi, xã hội hóa, tuyên truyền, đào tạo cán bộ... thể hiện được sự cam kết của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật về người khuyết tật.
5. Quy định về xác nhận khuyết tật; phương pháp và thủ tục xác nhận khuyết tật và xác định lại mức độ khuyết tật.
6. Quy định về các điều kiện bảo đảm để thực hiện các chính sách của nhà nước về người khuyết tật cụ thể như:
- Trách nhiệm của Nhà nước, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; cơ sở chỉnh hình phục hồi chức năng và gia đình trong việc bảo đảm để người khuyết tật được khám bệnh, chữa bệnh và chỉnh hình phục hồi chức năng; quy định việc ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh và chỉnh hình phục hồi chức năng đối với trẻ em khuyết tật, phụ nữ khuyết tật và người cao tuổi khuyết tật.
- Quy định Người khuyết tật được nhập học ở độ tuổi cao hơn so với độ tuổi quy định đối với giáo dục phổ thông; được ưu tiên trong tuyển sinh; được miễn, giảm một số môn học hoặc nội dung và hoạt động giáo dục mà khả năng của cá nhân không thể đáp ứng; được miễn, giảm học phí, chi phí đào tạo, các khoản đóng góp khác; được xét cấp học bổng, hỗ trợ phương tiện, đồ dùng học tập; Người khuyết tật được cung cấp phương tiện, tài liệu hỗ trợ học tập dành riêng trong trường hợp cần thiết; người khuyết tật nghe, nói được học bằng ngôn ngữ ký hiệu; người khuyết tật nhìn được học bằng chữ nổi Braille theo chuẩn quốc gia; quy định phương thức giáo dục người khuyết tật gồm giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập và giáo dục chuyên biệt; bổ sung chính sách đối với cán bộ, giáo viên, giảng viên, nhân viên hỗ trợ giáo dục người khuyết tật.
- Quy định những vấn đề có tính nguyên tắc về dạy nghề và việc làm theo đó các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân không được từ chối tuyển dụng người khuyết tật có đủ tiêu chuẩn tuyển dụng vào làm việc; chính sách hỗ trợ đối với người khuyết tật tự tạo việc làm hoặc hộ gia đình tạo việc làm cho người khuyết tật; chính sách đối với doanh nghiệp dành riêng cho người khuyết tật, chính sách khuyến khích sử dụng lao động là người khuyết tật làm việc.
- Quy định các điều kiện để người khuyết tật tiếp cận và tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, giải trí và du lịch.
- Quy định các điều kiện bảo đảm để người khuyết tật tiếp cận và sử dụng công trình công cộng, tham gia giao thông và công nghệ thông tin.
- Quy định chính sách đối với cá nhân nhận nuôi dưỡng, chăm sóc người khuyết tật, cơ sở chăm sóc người khuyết tật.
IV. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN, TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN TRONG VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN LUẬT NGƯỜI KHUYẾT TẬT
1. Xây dựng và ban hành các văn bản để triển khai thi hành Luật Người khuyết tật
Dự kiến sẽ xây dựng và ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật sau đây:
- Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Người khuyết tật.
- Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực người khuyết tật.
- Thông tư của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết hoạt động của Hội đồng xác định mức độ khuyết tật; trình tự, thủ tục, hồ sơ xác định mức độ khuyết tật; đổi, cấp lại, thu hồi Giấy xác nhận khuyết tật.
- Thông tư liên tịch giữa các Bộ LĐTBXH, Y tế, Giáo dục- Đào tạo hướng dẫn thi hành quy định của Luật Nguời khuyết tật về dạng tật và xác định mức độ khuyết tật; giáo dục đối với người khuyết tật; điều kiện thành lập và hoạt động của Trung tâm hỗ trợ phát triển giáo dục hòa nhập.
2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến Luật Người khuyết tật
- Tổ chức các buổi giới thiệu các nội dung Luật Người khuyết tật.
- Xây dựng đặc san chuyên đề về Luật Người khuyết tật;
- Tổ chức tuyên truyền, giới thiệu các quy định của Luật Người khuyết tật và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan người khuyết tật bằng các hình thức, biện pháp phù hợp với từng đối tượng.
- Trong quý III và quý IV năm 2010 tổ chức tuyên truyền rộng rãi, thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng ở trung ương và địa phương.
- Biên soạn, in ấn tài liệu, hỏi đáp về Luật người khuyết tật.
- Các Báo, Tạp chí, chuyên san mở chuyên mục giới thiệu, giải thích nội dung cơ bản và những điểm mới của Luật Người khuyết tật.
_________________________________
1 Điều 67 và 59 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001QH10, ngày 25 tháng 12 năm 2001.
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Chính trị Quốc gia - Hà Nội - 1996, trang 116.
[3] Theo báo cáo số 81/BC-CP ngày 26 tháng 5 năm 2006 của Chính phủ về báo cáo 7 năm triển khai thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật.
[4] Theo kết quả khảo sát người khuyết tật năm 2008 của Bộ LĐTBXH.
[5] Điều 3, Pháp lệnh về người tàn tật (1998).
[6] Khoản 1 Điều 12 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định: “Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định những vấn đề được Quốc hội giao, sau một thời gian thực hiện trình Quốc hội xem xét, quyết định ban hành luật”.