Một trong những nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính (VPHC) theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (được sửa đổi, bổ sung năm 2020) là “Việc xử phạt VPHC được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật”. Thực tiễn triển khai thi hành Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành đã mang lại những kết quả tích cực, góp phần vào việc ổn định tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và phát triển kinh tế địa phương. Tuy nhiên, vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc về vấn đề xác định thẩm quyền, xác minh tình tiết vụ việc phức tạp trong xử phạt VPHC. Nguyên nhân là do các quy định của Luật Xử lý VPHC và một số văn bản có liên quan còn thiếu, chưa rõ ràng, cụ thể.
Ảnh minh họa
Trong xử lý VPHC, biên bản VPHC là thành phần tài liệu có giá trị pháp lý quan trọng, làm cơ sở xác định có hành vi VPHC, ra quyết định xử phạt VPHC và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả cũng như áp dụng các biện pháp xử lý VPHC một cách chính xác. Do đó, biên bản VPHC phải được lập đúng thẩm quyền, nội dung, hình thức, thủ tục theo quy định của pháp luật. Trường hợp biên bản VPHC có sai sót hoặc không thể hiện đầy đủ, chính xác các nội dung quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 58 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2020) hoặc trong trường hợp cần thiết người có thẩm quyền xử phạt VPHC đối với vụ việc tiến hành xác minh tình tiết của vụ việc vi phạm để làm căn cứ ra quyết định xử phạt VPHC. Việc xác minh tình tiết của vụ việc VPHC phải được lập thành biên bản xác minh. Biên bản xác minh là tài liệu gắn liền với biên bản VPHC và được lưu trong hồ sơ xử phạt.
Đối với quy định về người xác minh tình tiết vụ việc VPHC, khoản 1 Điều 59 Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: Khi xem xét ra quyết định xử phạt VPHC, trong trường hợp cần thiết người có thẩm quyền xử phạt có trách nhiệm xác minh các tình tiết sau: Có hay không có VPHC; Cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi VPHC, lỗi, nhân thân của cá nhân VPHC; Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ; Tính chất, mức độ thiệt hại do VPHC gây ra; Trường hợp không ra quyết định xử phạt VPHC theo quy định tại khoản 1 Điều 65 của Luật này; Tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc xem xét, quyết định xử phạt. Trong quá trình xem xét, ra quyết định xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt có thể trưng cầu giám định. Việc trưng cầu giám định được thực hiện theo quy định của pháp luật về giám định.
Như vậy, theo quy định của Luật thì người có trách nhiệm xác minh tình tiết vụ việc VPHC phải là người có thẩm quyền xử phạt.
Luật cũng đã quy định cụ thể việc xác minh tình tiết của vụ việc VPHC phải được lập thành biên bản xác minh. Cụ thể, theo hướng dẫn cách ghi mục “Người có thẩm quyền lập biên bản” tại mẫu số MBB05 - Phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính là: “Ghi họ và tên của người có thẩm quyền xử phạt VPHC đối với vụ việc hoặc họ và tên của người đại diện được người có thẩm quyền xử phạt VPHC ủy quyền.”.
Theo quy định trên thì người có thẩm quyền xử phạt VPHC có trách nhiệm xác minh tình tiết vụ việc VPHC và phải ký vào biên bản xác minh tình tiết vụ việc. Trường hợp, người có thẩm quyền xử phạt VPHC ủy quyền cho cá nhân hoặc tổ chức thực hiện xác minh tình tiết của vụ việc VPHC thì phải ủy quyền theo đúng quy định của pháp luật. Trường hợp này, người được ủy quyền ký vào biên bản xác minh với tư cách là người lập biên bản, để đảm bảo việc xác minh tình tiết vụ việc VPHC đúng thẩm quyền và làm căn cứ ban hành quyết định xử phạt. Tuy nhiên, trong thực tế thực hiện thì nội dung này phát sinh vướng mắc, khó khăn.
Về cơ sở pháp lý để giao quyền/ủy quyền thực hiện xác minh tình tiết vi phạm. Tại khoản 2, khoản 3 Điều 54 Luật Xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung năm 2020) quy định: Việc giao quyền xử phạt VPHC được thực hiện thường xuyên hoặc theo vụ việc, đồng thời với việc giao quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý VPHC quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 119 của Luật này (gồm các trường hợp: Áp giải người vi phạm; Tạm giữ tang vật, phương tiện VPHC, giấy phép, chứng chỉ hành nghề; Khám người; Khám phương tiện vận tải, đồ vật; Khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện VPHC và Quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất). Luật quy định rõ: việc giao quyền phải được thể hiện bằng quyết định, trong đó xác định rõ phạm vi, nội dung, thời hạn giao quyền. Cấp phó được giao quyền xử phạt VPHC phải chịu trách nhiệm trước cấp trưởng và trước pháp luật về việc thực hiện quyền được giao. Người được giao quyền không được giao quyền cho người khác.
Như vậy, Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định 118/2021/NĐ-CP quy định người có thẩm quyền xử phạt chỉ được giao quyền/ủy quyền cho cấp phó trực tiếp trong việc xử phạt; áp dụng các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý mà chưa có quy định người có thẩm quyền xử phạt VPHC được giao quyền/ủy quyền cho người khác thay mặt mình để thực hiện nội dung xác minh tình tiết vụ việc VPHC nên việc giao quyền/ủy quyền này cho ai, cho tổ chức nào là không có căn cứ pháp lý. Đồng thời, mẫu văn bản giao quyền/ủy quyền để thực hiện việc này như thế nào chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể nên quá trình thực hiện vẫn còn lúng túng và chỉ thực hiện theo hướng mang tính giải pháp tình thế thông qua việc ban hành văn bản bằng hình thức công văn giao cho người đã lập biên bản VPHC tiến hành xác minh vụ việc, không có căn cứ pháp lý mang tính thuyết phục.
Xét về thẩm quyền được giao quyền/ủy quyền xác minh, Luật Xử lý vi phạm hành chính và văn bản hướng dẫn thi hành quy định người được giao quyền phải là cấp phó của người được giao quyền mà không được giao quyền cho người khác.
Trong hoạt động công vụ, tại khoản 7 Điều 2 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2019 quy định: “Trong trường hợp cần thiết, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 12 của Luật này, cơ quan hành chính nhà nước cấp trên có thể ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp dưới trực tiếp, Ủy ban nhân dân có thể ủy quyền cho cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc, Chủ tịch UBND có thể ủy quyền cho Phó Chủ tịch UBND cùng cấp, người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc UBND cùng cấp, Chủ tịch UBND cấp dưới trực tiếp thực hiện một hoặc một số nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong khoảng thời gian xác định kèm theo các điều kiện cụ thể. Việc ủy quyền phải được thể hiện bằng văn bản”. Thực tiễn công tác xử lý VPHC cho thấy, nhiều trường hợp người có thẩm quyền lập biên bản VPHC và người có thẩm quyền xử phạt VPHC là khác nhau. Có trường hợp người lập biên bản VPHC là cán bộ, công chức cấp xã, cấp huyện, của các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh đang thi hành công vụ nhưng thẩm quyền xử phạt vụ việc có thể là chủ tịch UBND tỉnh (hoặc Phó Chủ tịch được giao quyền). Vì vậy, nếu cần thiết phải tiến hành xác minh tình tiết vụ việc VPHC thì người có thẩm quyền phải giao quyền cho ai để thực hiện công việc này phù hợp với thẩm quyền và đảm bảo về cơ sở pháp lý; tuy nhiên, Luật Xử lý vi phạm hành chính và văn bản hướng dẫn thi hành chưa quy định rõ.
Từ thực tiễn, có quan điểm cho rằng để khắc phục khó khăn, vướng mắc nêu trên, cơ quan có thẩm quyền cần sớm sửa đổi, bổ sung các quy định tại Điều 59 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng giao người có thẩm quyền lập biên bản VPHC là người có thẩm quyền xác minh tình tiết của vụ việc, đồng thời ban hành mẫu biên bản xác minh thay thế mẫu số MBB05 ban hành kèm theo Nghị định số 118/2021/NĐ-CP. Việc đề xuất sửa đổi này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 58 của Luật Xử lý vi phạm hành chính: “Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt không lập biên bản theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật này”.
Quy định Điều 58 được cụ thể hóa tại điểm a khoản 1 Điều 12 Nghị định số 118/2021/NĐ-CP: “Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ, nhiệm vụ khi phát hiện VPHC phải lập biên bản VPHC. Đối với hành vi có dấu hiệu VPHC không thuộc thẩm quyền lập biên bản VPHC hoặc không thuộc lĩnh vực, địa bàn quản lý của mình, thì người có thẩm quyền đang thi hành công vụ, nhiệm vụ phải lập biên bản làm việc để ghi nhận sự việc và chuyển ngay biên bản đến người có thẩm quyền”. Điều này đảm bảo nguyên tắc xử lý VPHC “Việc xử phạt VPHC được tiến hành nhanh chóng, công khai, khách quan, đúng thẩm quyền, bảo đảm công bằng, đúng quy định của pháp luật”.
Ý kiến đề xuất để khắc phục khó khăn, vướng mắc trong xử lý VPHC đối với việc cần phải xác minh tình tiết vụ việc phức tạp trong xử phạt VPHC. Tác giả rất mong nhận được nhiều ý kiến trao đổi của bạn đọc đối với nội dung trên.
Hữu Dương