Quy định về chứng thực còn bất cập
Nghị định số 23 ngày 16/2/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, hợp đồng, giao dịch có hiệu lực từ ngày 10/4/2015 (NĐ 23) góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm tải việc chứng thực. Nhưng sau một thời gian, NĐ 23 đã bộc lộ bất cập.
Để giảm chi phí, thời gian thực hiện, NĐ 23 quy định các trường hợp thực hiện thủ tục hành chính chỉ cần nộp bản sao, không cần bản sao có chứng thực, qua đó giảm áp lực cho các cơ quan có thẩm quyền chứng thực bản sao, góp phần nâng cao hiệu quả cải cách hành chính. Các quy định về chứng thực hợp đồng giao dịch cũng tạo thuận lợi hơn cho người dân bởi thành phần hồ sơ đơn giản, thời hạn giải quyết nhanh chóng, mức phí thấp hơn nhiều so với công chứng. Tuy nhiên, NĐ cũng bộc lộ những bất cập.
Về chứng thực hợp đồng, giao dịch, NĐ 23 quy định người yêu cầu chứng thực phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch; người thực hiện chứng thực chịu trách nhiệm về thời gian, địa điểm giao kết hợp đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc điểm chỉ của các bên tham gia hợp đồng, giao dịch. Thành phần hồ sơ quy định rất đơn giản: chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu còn giá trị sử dụng của các bên; dự thảo hợp đồng, giao dịch; giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng. Nhưng Công văn hướng dẫn số 842 của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (Bộ Tư pháp) ngày 26/5/2016 lại nêu: Quy định như vậy không có nghĩa là người thực hiện chứng thực không phải chịu trách nhiệm gì đối với hợp đồng, giao dịch có nội dung trái pháp luật, đạo đức xã hội; cơ quan thực hiện chứng thực, khi chứng thực hợp đồng, giao dịch phải thực hiện đầy đủ quy định tại Điều 35 của NĐ 23, theo đó, cùng với việc xác nhận về năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện các bên; thời gian, địa điểm ký kết hợp đồng, giao dịch..., thì phải xem xét nội dung của hợp đồng, giao dịch, đặc biệt hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất. UBND cấp xã cần kiểm tra, xác minh để bảo đảm tính hợp pháp của thửa đất là đối tượng của hợp đồng, giao dịch. Như vậy, để xác định nội dung hợp đồng, giao dịch đúng quy định hay không, công chức thực hiện chứng thực phải yêu cầu bổ sung một số giấy tờ như: giấy chứng tử, giấy khai sinh, giấy tờ chứng minh mối quan hệ của những người được hưởng di sản…; trái với NĐ 23 và thủ tục hành chính đã công bố. Vì vậy, các cơ quan chứng thực rất lúng túng khi tiếp nhận giải quyết, bởi nếu tiếp nhận theo đúng thành phần hồ sơ thì khi giải quyết sẽ không chặt chẽ, có khả năng tranh chấp hoặc hợp đồng giao dịch vô hiệu khi người yêu cầu chứng thực có hành vi gian dối…; nếu không tiếp nhận hoặc yêu cầu xuất trình bổ sung các giấy tờ hỗ trợ chứng minh tính hợp pháp của giao dịch thì không đảm bảo quy định về chứng thực.
Liên quan đến chứng thực bản sao từ bản chính, NĐ 23 quy định, chứng thực bản sao từ bản chính thì không lưu trữ. Nhưng một số địa phương có số hồ sơ chứng thực nhiều, nhân sự còn hạn chế nên phải tập trung giải quyết đảm bảo thời hạn cho người dân, không đủ thời gian ghi chép đầy đủ các thông tin theo quy định. Vì vậy, cơ quan chứng thực không có cơ sở để đối chiếu khi có tranh chấp, sai sót xảy ra, cũng như khi cần kiểm tra hoạt động thu phí. Ngoài ra, thực tiễn có một số trường hợp yêu cầu chứng thực bản sao từ bản chính là loại giấy tờ do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp nhưng chỉ đóng dấu nổi, không có dấu màu, vì vậy khi sao chụp giấy tờ không thể hiện được con dấu, nhưng hiện lại chưa có quy định cụ thể nào về thực hiện chứng thực đối với trường hợp trên. Bên cạnh đó, việc làm giả giấy tờ, văn bản ngày càng tinh vi, cán bộ làm công tác chứng thực khó nhận định chính xác tính hợp pháp của giấy tờ, văn bản yêu cầu chứng thực.
Về tiêu chuẩn, điều kiện của người dịch, NĐ 23 quy định người dịch phải có bằng cử nhân ngoại ngữ trở lên về thứ tiếng nước ngoài cần dịch hoặc có bằng tốt nghiệp đại học trở lên đối với thứ tiếng nước ngoài cần dịch. Nhưng văn bản hợp nhất số 01 năm 2018 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, thủ tục công nhận văn bằng được áp dụng đối với bằng tốt nghiệp hoặc giấy chứng nhận hoàn thành chương trình giáo dục các cấp học phổ thông; bằng tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp; bằng tốt nghiệp cao đẳng; bằng tốt nghiệp đại học; bằng thạc sĩ; bằng tiến sĩ do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp cho người Việt Nam. Hiện nay quy định trên đang áp dụng theo hướng công nhận văn bằng cho cá nhân có nhu cầu, không quy định cụ thể trong trường hợp nào bắt buộc đăng ký công nhận văn bằng mới có giá trị sử dụng tại Việt Nam. Như vậy, công dân Việt Nam có bằng cấp do cơ sở giáo dục nước ngoài cấp nhưng chưa thực hiện thủ tục công nhận văn bằng thì có được coi là hợp lệ, nhất là hiện nay, các loại hình đào tạo, các cơ sở giáo dục rất đa dạng, sở, phòng tư pháp không thể nắm rõ được tính hợp pháp của các loại bằng cấp để kiểm tra tiêu chuẩn, điều kiện của cộng tác viên dịch thuật theo NĐ 23.
Ông Đặng Văn Khánh – Phó Giám đốc Sở Tư pháp cho biết, Sở Tư pháp đã tham mưu UBND tỉnh kiến nghị Bộ Tư pháp tăng cường bồi dưỡng chuyên sâu kỹ năng nghiệp vụ chứng thực cho công chức trực tiếp thực hiện công tác này ở địa phương; nghiên cứu xây dựng phần mềm quản lý dữ liệu chứng thực áp dụng chung trong cả nước. Đồng thời, kiến nghị Chính phủ sửa đổi, bổ sung NĐ 23 cho phù hợp với thực tiễn; phối hợp với các bộ, ngành khác rà soát sửa đổi, bổ sung, thống nhất quy định về thành phần hồ sơ liên quan đến nộp bản sao/bản sao có chứng thực tại các văn bản quy phạm pháp luật quy định về thủ tục hành chính.