Đề cương giới thiệu luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự
Ngày 29/3/2011, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây gọi tắt là Luật). Ngày 08/4/2011 Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký Lệnh số 07/2011/L-CTN công bố Luật và có hiệu lực từ ngày 01/01/2012. I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
Bộ luật tố tụng dân sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15/6/2004, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2005 (sau đây viết tắt là BLTTDS). Sau hơn năm năm thi hành, BLTTDS đã góp phần quan trọng trong việc bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, công khai, đơn giản, thuận lợi cho người tham gia tố tụng thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng dân sự; bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật.
Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành BLTTDS trong những năm qua cho thấy, một số quy định của BLTTDS đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, mâu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật khác, chưa phù hợp (hoặc không còn phù hợp), chưa đầy đủ, thiếu rõ ràng và còn có những cách hiểu khác nhau, chưa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, chưa đáp ứng các yêu cầu cam kết quốc tế đa phương và song phương. Một số vấn đề mới phát sinh trong hoạt động tố tụng dân sự nhưng BLTTDS chưa có quy định để điều chỉnh.
Những hạn chế, bất cập nêu trên gây khó khăn, cản trở hoạt động tố tụng, ảnh hưởng tới chất lượng, hiệu quả hoạt động tố tụng dân sự, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu nhiệm vụ tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, công khai, đơn giản, thuận lợi cho người tham gia tố tụng; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia hoạt động tố tụng dân sự, bảo đảm giải quyết các vụ việc dân sự nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, bảo đảm nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động tố tụng dân sự đáp ứng ngày càng đầy đủ yêu cầu, nhiệm vụ tố tụng dân sự trong giai đoạn mới, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung BLTTDS hiện hành.
Hơn nữa, sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS là nhằm tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tiếp tục từng bước hoàn thiện một cách căn bản hệ thống pháp luật tố tụng dân sự nói chung và BLTTDS nói riêng; bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân sự đồng thời tạo điều kiện để Tòa án thực hiện tốt hơn công tác xét xử.
II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO CỦA VIỆC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BLTTDS
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS được xây dựng trên cơ sở quán triệt những quan điểm chỉ đạo và đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
1. Thể chế hóa các chủ trương, đường lối, quan điểm về cải cách tư pháp đã được xác định trong các nghị quyết, văn kiện của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là: “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận công lý; người dân chỉ nộp đơn đến Tòa án, Tòa án có trách nhiệm nhận và thụ lý đơn. Khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thông qua thương lượng, hòa giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định công nhận việc giải quyết đó.”;
2. Bảo đảm tính khả thi và tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS với hệ thống pháp luật.
3. Bảo đảm trình tự và thủ tục tố tụng dân sự dân chủ, công khai, đơn giản, công bằng, thuận lợi cho người tham gia tố tụng dân sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong hoạt động tố tụng dân sự;
4. Bảo đảm các bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải được thi hành;
5. Bảo đảm cụ thể hoá và không có sự xung đột giữa các quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS với các quy định của các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
6. Trên cơ sở tổng kết, kế thừa, đánh giá các quy định của BLTTDS hiện hành, kinh nghiệm giải quyết các vụ việc dân sự từ thực tiễn xét xử của Tòa án và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài, đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế;
7. Tập trung sửa đổi, bổ sung giải quyết những vấn đề mà trong quá trình thực hiện BLTTDS gặp nhiều vướng mắc, bức xúc.
III. BỐ CỤC CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BLTTDS
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS gồm 2 điều:
- Điều 1: quy định về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS;
- Điều 2: quy định về hiệu lực thi hành.
Điều 1 sửa đổi, bổ sung một số điều tại các chương của BLTTDS như sau:
1. Chương II - Những nguyên tắc cơ bản
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 7 về trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ của cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; Điều 16 về bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia tố tụng dân sự; Điều 21 về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự.
Luật bổ sung Điều 23a về bảo đảm quyền tranh luận trong tố tụng dân sự.
2. Chương III - Thẩm quyền của Toà án
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 25 về những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; Điều 26 về những yêu cầu về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; Điều 31 về những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án; sửa đổi Điều 33 về thẩm quyền của Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Điều 35 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ; Điều 36 về thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu; Điều 37 về chuyển vụ việc dân sự cho Toà án khác, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền.
Luật bổ sung Điều 32a về thẩm quyền của Toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức.
3. Chương VI – Người tham gia tố tụng
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 58 về quyền, nghĩa vụ của đương sự; sửa đổi Điều 59 về quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn; sửa đổi Điều 60 về quyền, nghĩa vụ của bị đơn. Điều 63 về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
4. Chương VII – Chứng minh và chứng cứ
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 82 về nguồn chứng cứ; Điều 85 về thu thập chứng cứ; Điều 90 về trưng cầu giám định; Điều 92 về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; Điều 94 về yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ.
5. Chương XI – Thời hạn tố tụng
Luật sửa đổi, bổ sung Điều 159 về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu.
6. Chương XII – Khởi kiện và thụ lý vụ án
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS như sau: Điều 164 về hình thức, nội dung đơn khởi kiện; Điều 168 về trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện; Điều 170 về khiếu nại, kiến nghị và giải quyết khiếu nại, kiến nghị về việc trả lại đơn khởi kiện; Điều 176 về quyền yêu cầu phản tố của bị đơn; Điều 177 về quyền yêu cầu độc lập và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
7. Chương XIII – Hòa giải và chuẩn bị xét xử
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 184 về thành phần phiên hoà giải; Điều 189 về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Điều 192 về đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Điều 193 về hậu quả của việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự; Điều 195 về quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Luật bổ sung Điều 185a về phương thức hòa giải.
8. Chương XIV – Phiên tòa sơ thẩm
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 199 về sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; Điều 202 về xét xử trong trường hợp đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự vắng mặt tại phiên toà; Điều 208 về thời hạn hoãn phiên tòa và quyết định hoãn phiên tòa; Điều 234 về phát biểu của kiểm sát viên.
Luật bãi bỏ các điều của BLTTDS như sau: Điều 200 về sự có mặt của bị đơn tại phiên toà; Điều 201 về sự có mặt của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; Điều 203 về sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
9. Chương XVI – Chuẩn bị xét xử phúc thẩm
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 257 về thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm; Điều 260 về đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; Điều 262 về chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu; Điều 264 về những người tham gia phiên toà phúc thẩm; Điều 266 về hoãn phiên tòa phúc thẩm; Điều 271 về nghe lời trình bày của đương sự, Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm;
Luật bổ sung Điều 273a về phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên toà phúc thẩm.
10. Chương XVII – Thủ tục xét xử phúc thẩm
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 275 về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm; Điều 277 về hủy bản án sơ thẩm, hủy một phần bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
11. Chương XVIII – Thủ tục giám đốc thẩm
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 284 về phát hiện bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật cần xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm; Điều 288 về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm; sửa đổi Điều 297 về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm; Điều 299 về hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để xét xử sơ thẩm lại hoặc xét xử phúc thẩm lại.
Luật bổ sung Điều 284a về đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm và Điều 284b về thủ tục nhận và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm.
12. Chương XIXa – Thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Trong chương này, Luật bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 310a về yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; Điều 310b về thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
13. Chương XX – Quy định chung về thủ tục giải quyết việc dân sự
Luật sửa đổi, bổ sung các điều của BLTTDS như sau: Điều 311 về phạm vi áp dụng; Điều 314 về thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân sự.
Luật bổ sung các điều: Điều 313a về quyết định việc thay đổi người tiến hành tố tụng khi giải quyết việc dân sự; Điều 339a về đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; Điều 339b về chuẩn bị xét đơn yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu; Điều 339c về quyết định tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu.
14. Chương XXV – Thủ tục giải quyết các việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam
Luật sửa đổi, bổ sung Điều 340 của BLTTDS về những việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án.
15. Chương XXX – Quy định chung về thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
Luật sửa đổi, bổ sung Điều 375 về những bản án, quyết định của Toà án được thi hành.
16. Chương XXXI – Thủ tục thi hành bản án, quyết định của Tòa án
Luật bãi bỏ các điều: Điều 376 về căn cứ để đưa ra thi hành bản án, quyết định của Toà án; Điều 377 về quyền yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Toà án; Điều 378 về trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thi hành bản án, quyết định của Toà án; Điều 379 về kiểm sát việc thi hành bản án, quyết định của Toà án; và Điều 383 về thời hiệu yêu cầu thi hành bản án, quyết định của Tòa án.
IV. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BLTTDS
1. Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Theo tinh thần quy định của các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế, lao động trước đây thì Kiểm sát viên tham gia kiểm sát việc tuân theo pháp luật hầu hết các vụ việc dân sự nhưng BLTTDS hạn chế phạm vi tham gia phiên toà của Viện kiểm sát đối với vụ án dân sự. Tại Điều 21 BLTTDS quy định:
"1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà đối với những vụ án do Toà án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Toà án".
Việc hạn chế phạm vi tham gia của Viện kiểm sát nêu trên đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến một số vụ việc dân sự giải quyết thiếu khách quan, không bảo vệ kịp thời tài sản của nhà nước, của công dân và đặc biệt những vụ việc dân sự mà đương sự là những người yếu thế trong xã hội. Hơn nữa, trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam hiện nay, khi mà trình độ dân trí còn hạn chế, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án, thì việc quy định tăng thẩm quyền của Viện kiểm sát để Viện kiểm sát được tham gia các phiên tòa dân sự, qua đó thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình là cần thiết. Do vậy, Khoản 3 Điều 1 của Luật quy định kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, như sau:
"1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia các phiên họp sơ thẩm đối với các việc dân sự; các phiên toà sơ thẩm đối với những vụ án do Toà án tiến hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần.
3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm.”
2. Về thẩm quyền của Toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức
Trước đây, tại Điều 12 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 quy định trong quá trình xét xử vụ án dân sự, Tòa án có quyền huỷ quyết định rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức khác xâm phạm quyền lợi hợp pháp của đương sự trong vụ án mà Tòa án có nhiệm vụ giải quyết, nhưng BLTTDS năm 2004 đã bỏ quy định này.
Việc BLTTDS năm 2004 bỏ quy định về thẩm quyền này của Tòa án đã gây trở ngại cho hoạt động xét xử và không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự trong trường hợp quyết định của cơ quan, tổ chức khác rõ ràng trái pháp luật nhưng không được hủy bỏ. Thực tiễn thi hành BLTTDS cho thấy trong quá trình xét xử vụ án dân sự, có những quyết định của cơ quan, tổ chức khác liên quan đến vụ án rõ ràng trái pháp luật, nếu Tòa án chỉ có quyền kiến nghị hủy bỏ thì Toà án phải dừng việc giải quyết vụ án và chờ cơ quan, tổ chức khác xem xét huỷ bỏ quyết định trái pháp luật sau đó việc giải quyết vụ án mới được tiếp tục. Vì vậy, khoản 8 Điều 1 của Luật đã quy định bổ sung Điều 32a về thẩm quyền của Toà án đối với quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức theo hướng khi giải quyết vụ việc dân sự, Toà án có quyền hủy quyết định cá biệt rõ ràng trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự mà Toà án có nhiệm vụ giải quyết. Trong trường hợp này, cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức đó có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng.
Đây là quy định mới nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và tháo gỡ những vướng mắc trong hoạt động xét xử của Tòa án thời gian qua.
3. Về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
Hiện nay, việc thực hiện các quy định của BLTTDS về Hội đồng định giá do Tòa án quyết định thành lập để định giá tài sản ở nhiều Tòa án nhân dân địa phương rất khó khăn, phức tạp, mất nhiều thời gian, đặc biệt ở một số địa phương các thành viên của cơ quan chuyên môn được cử là thành viên Hội đồng định giá không tham gia Hội đồng định giá, cơ quan chuyên môn không cử người tham gia Hội đồng định giá, từ chối làm Chủ tịch Hội đồng định giá theo quy định tại khoản 3 Điều 92 BLTTDS hiện hành. Đây là một trong những nguyên nhân gây chậm trễ trong việc giải quyết vụ án của Tòa án.
Để góp phần rút ngắn thời gian, thủ tục cho Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, đặc biệt là thủ tục thành lập Hội đồng định giá, bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá, khoản 20 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung Điều 92 BLTTDS về định giá tài sản, thẩm định giá tài sản, theo hướng các bên có quyền tự thỏa thuận về việc xác định giá tài sản, lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản. Toà án chỉ ra quyết định định giá tài sản đang tranh chấp trong các trường hợp theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự hoặc các bên thoả thuận với nhau hoặc với tổ chức thẩm định giá theo mức giá thấp nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nước, đồng thời đề cao trách nhiệm tham gia hội đồng định giá của các cơ quan có liên quan. Trường hợp cơ quan tài chính, các cơ quan chuyên môn không cử người tham gia Hội đồng định giá; người được cử tham gia Hội đồng định giá không tham gia mà không có lý do chính đáng thì tùy theo mức độ vi phạm bị xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu
Khoản 3 Điều 159 BLTTDS năm 2004 quy định: "Trong trường hợp pháp luật không có quy định khác về thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu khởi kiện, thời hiệu yêu cầu được quy định như sau:
a) Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm;
b) Thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu".
Quy định nêu trên dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau, phần lớn những việc dân sự không thể áp dụng thời hiệu được như: yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự, yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, huỷ bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết...
Mặt khác, Điều 159 BLTTDS quy định việc tính thời hiệu khởi kiện kể từ thời điểm quyền và lợi ích bị xâm phạm là không hợp lý, ví dụ: trường hợp vi phạm pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm hoặc môi trường nhưng đương sự không biết được thời điểm xảy ra vi phạm để khởi kiện đúng thời hiệu. Do đó, cần phải xác định thời điểm các bên biết hoặc phải biết quyền và lợi ích của họ bị xâm phạm. Do vậy, khoản 22 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung, như sau:
“1. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự là thời hạn mà chủ thể được quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền yêu cầu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
3. Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự thì thực hiện như sau:
a) Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác quản lý, chiếm hữu; tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện;
b) Tranh chấp không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự là hai năm, kể từ ngày cá nhân, cơ quan, tổ chức biết được quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
4. Thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự được thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp pháp luật không có quy định về thời hiệu yêu cầu thì thời hiệu yêu cầu để Toà án giải quyết việc dân sự là một năm, kể từ ngày phát sinh quyền yêu cầu, trừ các việc dân sự có liên quan đến quyền dân sự về nhân thân của cá nhân thì không áp dụng thời hiệu yêu cầu.”
5. Bổ sung về phương thức hòa giải và trình tự hòa giải
Cơ chế hòa giải tại Tòa án là biện pháp hữu hiệu để giúp các bên đương sự giải quyết các tranh chấp dân sự, hôn nhân gia đình và lao động. Việc hòa giải thành không chỉ đem lại lợi ích cho các đương sự cả về mặt tinh thần lẫn lợi ích kinh tế, mà còn giảm tải cho việc phải xét xử vụ án dân sự của Tòa án…Tuy nhiên, BLTTDS hiện hành chưa có quy định về phương thức và trình tự hòa giải dẫn đến khi thực hiện thủ tục hòa giải tại Tòa án, nhiều Thẩm phán còn gặp nhiều lúng túng khi thực hiện việc hòa giải dẫn đến hiệu quả hòa giải chưa cao, do đó khoản 28 Điều 1 của Luật đã sửa đổi Điều 184 BLTTDS về thành phần phiên hòa giải và bổ sung Điều 185a về trình tự hòa giải, cụ thể như sau:
“Điều 184. Thành phần phiên hoà giải
1. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.
2. Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải.
3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.
Trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hoà giải và việc hoà giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hoà giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hoà giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải. Thẩm phán thông báo việc hoãn phiên hoà giải và việc mở lại phiên hoà giải cho đương sự biết.
4. Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên hoà giải.
5. Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng Việt.”
29. Bổ sung Điều 185a như sau:
“Điều 185a. Trình tự hoà giải
1. Trước khi tiến hành hoà giải, Thư ký Toà án báo cáo Thẩm phán về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia phiên hoà giải đã được Toà án thông báo. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải kiểm tra lại sự có mặt và căn cước của những người tham gia phiên hoà giải.
2. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải theo nội dung hoà giải quy định tại Điều 185 của Bộ luật này.
3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự trình bày ý kiến của mình về những nội dung tranh chấp và đề xuất những vấn đề cần hoà giải.
4. Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất.
5. Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã hoà giải thành và vấn đề chưa thống nhất.”
6. Về thủ tục giám đốc thẩm
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự trong thời gian qua cho thấy, có nhiều trường hợp gần hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, Tòa án, Viện kiểm sát mới nhận được đơn khiếu nại của đương sự nên không có đủ thời gian để xem xét; có trường hợp đương sự gửi đơn trong thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nhưng không được người có thẩm quyền xem xét hoặc không kịp thời phát hiện các sai sót, do đó khi phát hiện thì đã hết thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Tình trạng này đã tồn tại từ nhiều năm nay nhưng không có cơ chế để giải quyết, tháo gỡ.
Khoản 47 và 48 Điều 1 của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS đã sửa đổi, bổ sung Điều 284 và Điều 288 BLTTDS và bổ sung Điều 284a và Điều 284b, theo đó quy định về hình thức đơn, thủ tục nhận đơn và xem xét đơn đề nghị xem xét bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm. Đồng thời, quy định đương sự có quyền đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết định có liệu lực pháp luật. Giữ nguyên quy định tại khoản 1 Điều 288 BLTTDS về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm của người có thẩm quyền là 03 năm.
Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị 3 năm nhưng có các điều kiện sau đây thì thời hạn kháng nghị được kéo dài thêm hai năm, kể từ ngày hết thời hạn kháng nghị:
a) Đương sự đã có đơn đề nghị theo quy định tại khoản 1 Điều 284 của Bộ luật này và sau khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại khoản 1 Điều này đương sự vẫn tiếp tục có đơn đề nghị;
b) Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật theo quy định tại Điều 283 của Bộ luật này, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, của người thứ ba, xâm phạm lợi ích của Nhà nước và phải kháng nghị để khắc phục sai lầm trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật đó.
7. Về xem xét lại quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Thực tiễn công tác giám đốc thẩm của Toà án nhân dân tối cao cũng đã phát hiện một số quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có sai lầm nghiêm trọng nhưng pháp luật tố tụng hiện hành cũng chưa quy định về vấn đề xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Mặt khác, khoản 1 Điều 21 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân chỉ quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chứ không quy định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng, do vậy cần thiết kế cơ chế đặc biệt khắc phục bất cập nêu trên. Do đó, khoản 52 Điều 1 của Luật đã bổ sung Chương XIXa quy định thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, cụ thể như sau:
“Điều 310a. Yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
Khi có căn cứ xác định quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc phát hiện tình tiết quan trọng mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định mà Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, đương sự không biết được khi ra quyết định đó, nếu có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định đó.
2. Trường hợp có yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao để xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
3. Trường hợp có kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc Chánh án Toà án nhân dân tối cao phát hiện vi phạm, tình tiết mới thì Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị đó.
Trường hợp nhất trí với kiến nghị của Ủy ban tư pháp của Quốc hội, kiến nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao hoặc đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, thì Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra quyết định giao Chánh án Toà án nhân dân tối cao tổ chức nghiên cứu hồ sơ vụ án, báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét, quyết định. Trường hợp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao không nhất trí với kiến nghị, đề nghị thì phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
4. Phiên họp của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét kiến nghị, đề nghị quy định tại khoản 3 Điều này phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Điều 310b. Thủ tục và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
1. Chánh án Toà án nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, báo cáo Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được yêu cầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định tại khoản 2 Điều 310a của Bộ luật này hoặc kể từ ngày có quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quy định tại khoản 3 Điều 310a của Bộ luật này.
2. Phiên họp Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải có sự tham dự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trường hợp xét thấy cần thiết, Toà án nhân dân tối cao có thể mời cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan đến tham dự phiên họp.
3. Sau khi nghe Chánh án Toà án nhân dân tối cao báo cáo, nghe ý kiến của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, của cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan được mời tham dự, nếu có, Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra quyết định hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực của Toà án cấp dưới có vi phạm pháp luật nghiêm trọng hoặc có tình tiết quan trọng mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định và tùy từng trường hợp mà quyết định như sau:
a) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và quyết định về nội dung vụ án;
b) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Toà án nhân dân tối cao có quyết định vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị hủy do lỗi vô ý hoặc cố ý và gây thiệt hại cho đương sự hoặc xác định trách nhiệm bồi hoàn giá trị tài sản theo quy định của pháp luật;
c) Hủy quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm pháp luật để giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp dưới giải quyết theo quy định của pháp luật.
4. Quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao phải được ít nhất ba phần tư tổng số thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao biểu quyết tán thành.
5. Toà án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành Điều này.”
Việc quy định cơ chế xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao như trên xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn công tác xét xử. Đồng thời với ý nghĩa Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân nên việc xây dựng cơ chế cho phép Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tự xem xét lại quyết định của mình là nhằm mục đích bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Cùng với việc thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII cũng đã thông qua Nghị quyết về việc thi hành Luật tố tụng hành chính (Nghị quyết số 60/2011/QH12 ngày 29-3-2011). Để thi hành Luật tố tụng hành chính và Nghị quyết số 60/2011/QH12 thì cần triển khai các hoạt động sau đây:
1. Tòa án nhân dân tối cao và các cơ quan có thẩm quyền khẩn trương xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 60/2011/QH12.
2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự trong cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân nhằm đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, nâng cao ý thức, trách nhiệm của từng cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện các quy định của Luật, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tác dụng của Luật trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
3. Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ công chức của ngành Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân để bảo đảm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án dân sự theo quy định mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự.